Chúa Nhật 25-10-1970, Đức Thánh Cha Phaolô VI long trọng tôn vinh 40 vị tử đạo Anh
lên hàng hiển thánh. Đây là các chứng nhân Kitô anh hùng bị giết chết trong khoảng
từ năm 1535 đến năm 1610, vì trung thành với Giáo Hội Công Giáo Roma và vì không chấp
nhận nhà vua hoặc nữ hoàng Anh Quốc là thủ lãnh của Giáo Hội Công Giáo tại Anh quốc.
Trong số các vị tử đạo nổi bật khuôn mặt khiêm tốn của thánh nữMargaret
Clitherow, một người mẹ gia đình 30 tuổi.
Margaret lập gia đình với người bán thịt tên John Clitherow và sinh hạ hai đứa con.
John - chồng của Margaret - chấp nhận theo Anh giáo nhưng Margaret thì cương quyết
trung thành với Giáo Hội Công Giáo Roma. Thêm vào đó, Margaret còn kín đáo cho các
Linh Mục Công Giáo trú ẩn trong nhà. Bà bị bắt rồi được thả ra không biết bao nhiêu
lần. Sau cùng, năm 1586 bà bị bắt thực thụ và bị kết án tử hình.
Bản án kết
thúc với lời lẽ như sau:
- Bà sẽ bị nhốt nơi phòng giam tồi tệ nhất của nhà
tù, ba ngày trước khi bị giết. Bà sẽ bị bỏ nằm trần truồng dưới đất, không được ăn
uống gì, ngoại trừ chút bánh mì khô với nước ao hồ, và ngày thứ ba, bà sẽ bị nghiền
nát, tay chân bị cột vào cọc và lưng nằm trên một tảng đá nhọn.
Sau khi nghe
đọc bản án bà Margaret chỉ đơn sơ nói:
- Nếu bản án viết theo lương tâm của
ngài, thì tôi nguyện xin THIÊN CHÚA khoan hồng cho ngài. Tôi thành thật cám ơn ngài.
Khi ông John Clitherow - chồng của bà Margaret - nghe tin hiền thê bị kết án tử hình,
ông nổi giận và khóc lóc thảm thiết, đến nổi máu từ mũi chảy ra lai láng. Ông hét
lớn cho mọi người đều nghe:
- Hãy tịch thu tất cả những gì tôi có, lấy hết,
lấy hết đi, nhưng hãy cứu sống hiền thê tôi, bởi vì nàng là phụ nữ hoàn hảo nhất của
vương quốc Anh và là tín hữu Công Giáo đạo đức nhất!
Bản án kết tội bà Margaret
gây chấn động rất lớn trong xã hội Anh lúc bấy giờ. Để làm lắng dịu dư luận, các quan
tòa tung ra nguồn tin xấu liên hệ đến đời sống gia đình bà Margaret. Trước các tin
đồn, bà Margaret bình tĩnh trả lời:
- Đối với chồng tôi, xin các ông nhớ cho
rằng, tôi yêu chồng nhất trên thế gian sau THIÊN CHÚA. Đối với con cái, tôi hết lòng
chăm sóc, đúng như bàn tay người mẹ chăm sóc con. Tôi tin rằng tôi làm tròn bổn phận
người mẹ, khi tôi giáo dục con cái lớn lên trong niềm kính sợ THIÊN CHÚA. Giờ đây,
lòng tôi đau xé vì không còn được dưỡng dục con cái. Chính vì lý do này mà tôi thà
sẵn sàng dâng hiến con cái cho THIÊN CHÚA, Đấng trao ban con cái cho tôi, chẳng thà
thay đổi một chấm nhỏ trên Đức Tin của tôi .. Nếu tôi có làm điều gì mất lòng chồng
tôi, ngoài phạm vi lương tâm, thì tôi sẽ xin THIÊN CHÚA và chồng tôi tha thứ cho tôi.
Mặc dầu nghe bà trả lời rõ ràng như thế, các quan án vẫn ép buộc bà phải xưng thú
lỗi lầm bà phạm mất lòng chồng, để có thể rêu rao tiếng xấu về bà. Biết rõ thâm ý
của họ, bà Margaret vẫn không nao núng. Bà đơn sơ trình bày:
- Tôi nghĩ rằng
chồng tôi không thể trách tôi bất cứ điều gì, ngoài những chuyện nhỏ nhặt vẫn thường
xảy ra trong đời sống vợ chồng. Vậy thì xin các ngài cho phép tôi gặp mặt chồng tôi,
để tôi bày tỏ trước khi chết.
Nhưng lời xin của bà không được các quan án
chấp thuận.
Bà Margaret Clitherow bình tĩnh chờ ngày hành quyết. Chỉ có ý
tưởng duy nhất làm xao động lòng bà: đó là việc bà bị phạt nằm trần truồng dưới đất
trước khi chết. Do đó đêm tối trước ngày bị giết, bà thức dậy lúc nửa đêm, cẩn thận
mặc chiếc áo phủ kín người mà bà kín đáo tự may trong tù, rồi quỳ cầu nguyện cho tới
sáng. Bà xin người cai tù trao chiếc mũ của bà cho chồng, bày tỏ tình bà dành cho
chồng, như là người chủ gia đình. Bà cũng xin trao đôi giày và đôi tấc của bà cho
đứa con gái lớn, 12 tuổi tên Anne, như lời nhắn nhủ con gái hãy bước theo gương mẹ.
Ngày 25-3-1586, cuộc hành quyết diễn ra khác với bản án đã ghi. Bà bị giết ngoài nhà
tù. Bà được phép quỳ gối cầu nguyện trước khi thân xác bị nghiền nát. Cơn hấp hối
kéo dài 15 phút. Năm ấy bà Margaret Clitherow hưởng dương 30 tuổi.
...
”Tìm đâu ra một người vợ đảm đang?
Nàng quý giá vượt xa châu ngọc. Chồng nàng hết dạ tin
tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. Suốt đời,
nàng đem lại hạnh phúc chứ không gây tai họa cho chồng .. Chồng nàng
được tiếng thơm nơi cổng thành khi ngồi chung với hàng kỳ mục
trong dân. Nàng dệt vải đem bán, cung cấp dây lưng cho nhà buôn.
Trang phục của nàng là quyền uy danh giá, nàng mỉm cười
khi nghĩ đến tương lai. Nàng khôn ngoan trong lời ăn tiếng
nói và dịu hiền khi dạy dỗ bảo ban. Nàng để mắt trông nom mọi việc
trong nhà, bánh nàng ăn là do mồ hôi nước mắt nàng làm
ra. Con nàng đứng lên ca tụng nàng có phúc. Chồng nàng cũng tấm tắc ngợi khen:
”Có nhiều cô đảm đang, nhưng em còn trổi trang gấp bội”.
Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là phù vân. Người phụ nữ
kính sợ THIÊN CHÚA mới đáng cho người đời ca tụng”
(Sách Châm Ngôn 31 10-30).