Thánh giáo phụ Beda, thần học gia cha đẻ của ngành viết sử Anh quốc
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã mời gọi mọi người cầu nguyện để Kitô hữu Âu châu sẵn
sàng tái khám phá ra các gốc rễ chung và là những người xây dựng một Âu châu nhân
bản và Kitô sâu xa đích thực.
Đức Thánh Cha đã đưa ra lời kêu gọi trên đây
trong buổi tiếp kiến chung gần 30.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tại
quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 18-2-2009. Trong các nhóm hiện diện cũng có 27
tu sĩ dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa, đang tham dự khóa huấn luyện chuẩn bị khấn
trọn do nhà Bề Trên Tổng Quyền tổ chức tại Roma, trong đó có 5 thầy Việt Nam.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã trình bầy tiểu sử và các tư tưởng thần học của
Thánh Beda. Giáo Phụ Beda sinh tại Northumbia, miền bắc Anh quốc năm 672-673, năm
7 tuổi được cha mẹ giao cho viện phụ tu viện Biển Đức gần nhà giáo dục. Người lớn
lên, sống đời tu sĩ trong kinh nguyện và nghiên cứu Kinh Thánh rồi trở thành một trong
những gương mặt thông thái nổi tiếng của thời Thượng Trung Cổ. Nhờ nghiên cứu các
thủ bản và tài liệu qúy báu mà các viện phụ đem về sau các chuyến đi Roma và Âu châu,
Beda đã trở thành một giáo sư lỗi lạc và viết nhiều bộ sách nổi tiếng khiến cho thánh
nhân có rất nhiều bạn bè trong các nhân vật nổi tiếng thời đó. Bị đau nhưng thánh
nhân vẫn cố gắng làm việc, và đã kết thúc tác phẩm quan trọng nhất là ”Bộ Lịch Sử
Giáo Hội Anh” với lời cầu sau đây: ”Lậy Chúa Giêsu, là Đấng đã cho phép con kín múc
nơi suối nguồn các lời ngọt ngào sự khôn ngoan của Chúa, con xin Chúa cho con một
ngày kia được đến với Chúa là suối nguồn của sự khôn ngoan, và luôn ở trước mặt Chúa”.
Giáo phụ qua đời ngày 26 tháng 5 năm 735 đúng ngày lễ Thăng Thiên. Liên quan tới một
số đặc thái trong suy tư thần học của thánh Beda, Đức Thánh Cha nói:
Kinh
Thánh là suối nguồn thường hằng trong suy tư thần học của giáo phụ Beda. Chúng ta
còn có được thủ bản Vulgata Codex Amiatinus mà giáo phụ dùng xưa kia. Dựa trên việc
nghiên cứu phân tích văn bản cẩn thận, giáo phụ chú giải Kinh Thánh bằng cách đọc
nó trong chìa khóa Kitô học. Nghĩa là người kết hợp hai yếu tố: một đàng là lắng nghe
điều văn bản nói một cách chính xác để hiểu ý nghĩa văn bản, đàng khác là xác tín
rằng chìa khóa giúp hiểu Kinh Thánh như lời duy nhất của Thiên Chúa là Chúa Kitô,
và với Chúa Kitô, trong ánh sáng của Ngài, chúng ta hiểu Cựu Ước và Tân Ước như là
một Kinh Thánh duy nhất.
Mặc dù được diễn tả trong các dấu chỉ và cơ cấu khác
nhau, các biến cố cựu ước và tân ước đi với nhau và là con đường dẫn tới Chúa Kitô.
Chẳng hạn lều giao ước, mà ông Môchê cho dựng lên trong sa mạc và đền thờ thứ nhất
và thứ hai của thành Giêrusalem, là hình ảnh của Giáo Hội, đền thờ mới được xây dựng
trên Chúa Kitô và trên các Tông Đồ với các viên đá sống động, được gắn liền nhau bởi
tình bác ái của Chúa Thánh Thần. Và cũng như đã có cả các dân ngoại góp phần vào việc
xây dựng đền thờ cũ bằng cách đóng góp vật liệu qúy giá và kinh nghiệm kỹ thuật của
các thợ cả, các tông đồ và các bậc thầy không chỉ phát xuất từ dòng giống do thái
cũ, mà từ cả các dân tộc mới nữa, trong đó giáo phụ Beda kể tên cả dân tộc Iro-Celtic
và người Anglosaxon. Sự đại đồng của Giáo Hội không chỉ giới hạn vào một nền văn hóa,
nhưng bao gồm tất cả mọi nền văn hóa của thế giới: chúng phải rộng mở cho Chúa Kitô
và tìm thấy điểm tới nơi Ngài.
Còn có một đề tài khác được thánh Beda ưa thích:
đó là lịch sử Giáo Hội. Khởi hành từ sách Công Vụ thánh nhân lần lại lịch sử của các
Giáo Phụ và các Công Đồng, với xác tín rằng Chúa Thánh Thần tiếp tục hoạt động trong
lịch sử. Trong tác phẩm ”Sử Biên Lớn” thánh nhân vạch lại thứ tự thời gian, sau này
trở thành nền tảng của Lịch đại đồng ”bắt đầu từ biến cố nhập thể của Chúa”. Vào thời
đó người ta đã tính ngày thành lập thành Roma. Nhưng giáo phụ Beda cho rằng mốc tính
thời gian là biến cố Chúa Kitô giáng sinh. Thánh nhân cũng ghi chép lại 5 Công Đồng
Chung đầu tiên và các tiến trình của chúng, bằng cách trung thực ghi chép lại giáo
lý Kitô học, thánh mẫu học, và cứu độ học, và tố cáo các lạc giáo duy nhất tính và
duy nhất ý chí, cũng như bè phái tàn phá ảnh tượng thánh và tân pelagio. Sau cùng
giáo phụ biên soạn ”Bộ Sử Ký Giáo Hội” của các dân tộc Anh và được coi là cha đẻ của
ngành viết sử Anh quốc.
Các đặc tính của Giáo Hội mà thánh Beda thích nêu
lên đó là: thứ nhất, tính cách công giáo như sự trung thành với truyền thống và rộng
mở cho các phát triến lịch sử cũng như kiếm tìm hiệp nhất trong đa dạng, trong sự
khác biệt lịch sử và các nền văn hóa, theo các chỉ dẫn mà Đức Giáo Hàng Gregorio Cả
đã trao cho vị tông đồ nước Anh là Agostino thành Canterbury. Thứ hai là tính cách
tông truyền và Roma. Liên quan tới sự kiện này giáo phụ Beda cho rằng điều tối quan
trọng là thuyết phục mọi Giáo Hội Iro-Celtic và Pitti cùng cử hành lễ Phục Sinh theo
lịch Roma. Lịch do thánh nhận biên soạn một cách khoa học để xác định ngày chính xác
của lễ Phục Sinh và toàn chu kỳ phụng vụ đã trở thành văn bản quy chiếu cho toàn thể
Giáo Hội Công Giáo.
Thánh Beda cũng là một bậc thầy của thần học phụng vụ.
Các bài giảng thánh lễ Chúa Nhật và Lễ Trọng của người là một tổng hợp giáo dục tín
hữu tươi vui cử hành các mầu nhiệm lòng tin và thực hành mầu nhiệm đó trong cuộc sống,
trong khi chờ đợi ngày Chúa Kitô trở lại trong vinh quang và thân xác vinh hiển của
chúng ta được theo Chúa bước vào tham dự phụng vụ thiên quốc.
Theo khuynh
hướng giáo lý thực tế cụ thể của các giáo phụ Cirillo, Ambrogio và Agostino, giáo
phụ Beda dậy rằng các bí tích khai tâm Kitô ”không chỉ biến mỗi tín hữu trở thành
Kitô hữu mà trở thành Chúa Kitô”. Thật thế, khi một linh hồn noi gương Mẹ Maria trung
thành tiếp nhận và giữ gìn Lời Chúa với tình yêu thương, thì nó thụ thai và sinh ra
Chúa Kitô trở lại. Hay khi một nhóm tín hữu tân tòng lãnh nhận các bí tích Phục Sinh,
thì Giáo Hội ”tự sinh ra”, hay với một kiểu nói táo bạo hơn nữa, thì Giáo Hội trở
thành ”Mẹ Thiên Chúa”, bằng cách tham dự vào việc sinh ra các con cái của mình do
quyền năng của Chúa Thánh Thần. Tóm tắt kiểu suy tư thần học của thánh Beda Đức Thánh
Cha nói:
Nhờ kiểu làm thần học bằng cách để cho Kinh Thánh, Phụng Vụ và Lịch
Sử gặp nhau, giáo phụ Beda đưa ra một sứ điệp thời sự cho các tình trạng sống khác
nhau: trước hết người nhắc cho các nhà nghiên cứu biết hai bổn phận chính yếu của
họ; đó là thăm dò các việc diệu kỳ của Lời Chúa để trình bầy chúng cho tín hữu trong
hình thái hấp dẫn; tiếp đến là trình bầy các sự thật tín lý một cách đơn sơ theo tinh
thần công giáo bằng cách tránh các phức tạp lạc giáo. Điểm thứ hai, về phần mình các
chủ chăn phải dành ưu tiên cho việc giảng dậy, không phải chỉ bằng cách dùng ngôn
từ hay hạnh các thánh, mà còn bằng các hình ảnh thánh, các cuộc rước kiệu và hành
hương nữa. Thánh Beda khuyên các vị dùng từ ngữ bình dân như thánh nhân đã làm khi
giải thích cho dân chúng ý nghĩa kinh Lậy Cha, kinh Tin Kính và chú giải Phúc Âm thánh
Gioan. Điểm thứ ba thánh nhân nhắn nhủ những người sống đời thánh hiến với các giờ
kinh thần vụ, cuộc sống huynh đệ cộng đoàn tươi vui và nỗ lực tấn tới trong đời khổ
chế và chiêm niệm, phải biết làm việc tông đồ, cộng tác với các Giám Mục trong các
sinh hoạt mục vụ khác nhau đối với các cộng đoàn Kitô trẻ, sẵn sàng ra đi rao giảng
Tin Mừng cho dân ngoại ở nước ngoài như là các ”người hành hương vì tình yêu thương
Thiên Chúa”.
Trong viễn tượng đó khi chú giải sách Diễm Ca, thánh Beda trình
bầy Hội Đường và Giáo Hội như là các nữ cộng sự viên trong việc phổ biến Lời Chúa.
Chúa Kitô Hôn Phu muốn Giáo Hội chuyên cần ”da sạm nắng vì các khổ nhọc trong công
tác rao truyền Tin Mừng”, dọn dẹp cánh đồng vườn nho để thiết lập giữa các dân tộc
mới ”không phải một túp lều tranh nhưng một ngôi nhà chắc chắn”, nghĩa là hội nhập
Tin Mừng vào lòng xã hội và trong các cơ cấu văn hóa. Cũng trong nghĩa này thánh Beda
khích lệ anh chị em giáo dân kiên trì trong việc học giáo lý, noi gương các đám đông
xưa kia khao khát nghe giảng giải Lời Chúa đến độ không để cho các tông đồ có thời
giờ ăn uống nghỉ ngơi.
Thánh nhân dậy họ cầu nguyện liên lỉ, thực hành các
điều họ cử hành trong phụng vụ và dâng mọi hành động lên cho Thiên Chúa như của lễ
thiêng liêng kết hiệp với của lễ của Chúa Kitô. Ngài khích lệ các người làm cha mẹ
thi hành ”chức tư tế là chủ chăn và người hướng dẫn” trong gia đình bằng cách giáo
dục con cái sống lòng tin Kitô.
Hương thơm thánh thiện của giáo phụ Beda nổi
tiếng đến độ ngay khi ngài còn sống người ta đã gọi là ”Đấng Đáng Kính”; và Đức Giáo
Hoàng Sergio I cũng gọi người như vậy khi viết thư cho đức viện phụ xin phép cho giáo
phụ về Roma để Đức Giáo Hoàng hỏi ý kiến người về một số vấn đề của Giáo Hội hoàn
vũ. Sau khi thánh Beda qua đời các bút tích của người được phổ biến rộng rãi bên Anh
quốc và tại Âu châu. Giám Mục Bonifazio, thừa sai tại Đức, nhiều lần xin Đức Tổng
Giám Mục York và đức viện phụ Wearmouth sao chép lại một số các tác phẩm của thánh
nhân và gửi sang Đức cho ngài. Một thế kỷ sau đó viện phụ Motkero Galbulo của tu viện
San Gallen gọi thánh Beda là mặt trời Thiên Chúa cho mọc lên từ Phương Tây.
Và Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: Do ảnh hưởng các bút tích của người
thánh Beda đã góp phần xây dựng Âu châu Kitô. Chúng ta hãy cầu nguyện để mọi người
sẵn sàng tái khám phá ra các gốc rễ chung và là những người xây dựng một Âu châu nhân
bản và Kitô sâu xa đích thực.
Sau khi chào tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác
nhau Đức Thánh Cha đã cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.