... Câu chuyện xảy ra hồi thế chiến thứ hai 1939-1945 và do nữ tu Catherine kể lại.
Thời quân Đức chiếm đóng Verviers - vương quốc Bỉ - tôi có nhiệm vụ chăm sóc bệnh
nhân trong trại tù người Đức. Một buổi sáng, tôi đến giúp người tỵ nạn nơi trung tâm
tiếp cứu. Tại đây, tôi trông thấy một thanh nữ trạc tuổi 20, bị kết án tử hình. Cô
là tín hữu Công Giáo Nga và chào đời tại Ba Lan. Nét mặt cô buồn ảo não đến độ khiến
tôi đặc biệt chú ý ngay khi vừa trông thấy cô. Tôi gợi chuyện hỏi biết lý do. Cô trả
lời:
- Em rất thích sống và muốn sống, nhưng chỉ vài ngày nữa, tất cả chấm
dứt đối với em!
Tôi hỏi:
- Em là tín hữu Công Giáo phải không?
Cô đáp ngay:
- Thưa phải! Em là người Công Giáo!
Tôi liền cởi dây
đeo có ảnh vảy phép lạ (ảnh Đức Mẹ ban ơn) trao cho cô và dặn:
- Em hãy nhận
dây đeo và ảnh Đức Mẹ MARIA. Hãy mang nơi cổ và để lộ rõ ràng ảnh vảy phép lạ. Rồi
hãy thực hiện câu nói của thánh nữ Jeanne d'Arc (1412-1431). Em biết câu gì không?
Đó là câu: ”Kẻ nào không biết liều thì cũng chả biết thành công là gì!”
Nghe
tôi nói thế, cô gái Công Giáo người Nga hiểu ngay đến lúc cô phải tìm đường tẩu thoát
..
Một buổi sáng tinh sương, cô trốn khỏi trại và chạy như bay, băng qua cánh
đồng. Cô càng ra sức chạy mau hơn nữa, khi thoáng thấy đàng sau mình, có người đang
đuổi theo. Cô hoảng hồn thất vía. Vừa chạy cô vừa nắm chặt ảnh vảy phép lạ và thành
khẩn kêu van, xin Đức Mẹ MARIA cứu cô thoát chết.
Sau cùng thì thanh niên
cũng đuổi kịp cô. Chàng nói với cô:
- Cô chạy trốn phải không? Tôi thấy cô
là người Công Giáo. Còn tôi là người Mỹ. Vậy tôi sẽ giúp cô. Cô đừng sợ hãi gì cả!
Viên sĩ quan trẻ tuổi người Mỹ cư xử với cô gái người Nga y như thể cô là vị hôn thê.
Trong khi đó, cô gái chỉ mong ước điều duy nhất: TỰ DO!
Khi cả hai đến được
Hoa Kỳ - bến bờ của TỰ DO - chàng thanh niên Mỹ trả lại tự do thực sự cho cô gái và
nói:
- Tôi đã cứu sống cô. Đúng như thế. Nhưng tôi không lạm dụng lý do này
mà cầm giữ cô như là hôn thê thật của tôi. Tôi cầu chúc cô tìm thấy một hôn phu khác!
Cô gái cảm động trả lời:
- Tôi không quen biết ai nơi đây cả. Nhưng anh đã
cứu tôi thoát chết. Bây giờ tôi được hoàn toàn tự do. Vậy thì, tôi xin dùng tự do
của tôi để chứng tỏ lòng tôi ghi ơn anh. Tự do của tôi không gì khác là được ở cạnh
anh mãi mãi!
Thế là đôi bạn trẻ - một Nga một Mỹ - quyết định kết hôn. Một
năm sau, họ sinh đứa con đầu lòng. Sau lễ nghi rửa tội của đứa bé, họ viết thư cho
tôi và kể lại câu chuyện trốn thoát thành công khỏi trại tù và cuộc sống hiện tại
nơi đất Hoa Kỳ. Họ sống thật hạnh phúc bên nhau và nhất là, lòng đầy tràn tâm tình
cảm tạ dâng lên Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA, Hiền Mẫu Chí Thánh.
... Câu
chuyện thứ hai do Linh Mục dòng Tên kể lại.
Khi chúng tôi mua chiếc xe mới,
có người tặng tôi hai mẫu ảnh vảy phép lạ để trong xe. Tôi đặt hai mẫu ảnh nơi hộp
đựng găng-tay trong xe, và không chú ý cho lắm. Hai năm sau, tôi và Linh Mục bạn di
chuyển trên xa lộ và chạy qua một chiếc cầu. Bỗng xe đâm vào thành cầu và rớt xuống
cầu. Chiếc cầu cao 32 thước. Mọi người chứng kiến tai nạn đinh ninh ai ở trong chiếc
xe chắc chắn toi mạng!
Phần chúng tôi, khi xe rớt xuống vực sâu rồi, tôi
hỏi bạn Linh Mục:
- Anh có việc gì không?
Anh trả lời:
- Không!
Chúng tôi càng cảm động và kinh ngạc hơn nữa khi nhận thấy trên đầu gối mỗi người
có một ảnh vảy phép lạ! Thật là diệu kỳ!
Suốt đời, tôi không bao giờ quên
ơn Đức Mẹ MARIA phù trì che chở chúng tôi thoát chết cách lạ lùng như thế.
... ”Đường lối THIÊN CHÚA quả là toàn thiện. Lời Chúa hứa được chứng nghiệm tỏ tường.
Chính THIÊN CHÚA là khiên che thuẫn đỡ cho những ai ẩn náu bên Ngài. Ngoài Chúa ra
hỏi ai là THIÊN CHÚA? Ai là núi đá độ trì, ngoài THIÊN CHÚA của con? Chính
THIÊN CHÚA làm cho con nên hùng dũng, và cho đường nẻo con đi được thiện toàn.
Chúa cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai. Ngài đặt con đứng vững trên đỉnh núi.
Tập cho con theo phép binh đao, luyện đôi tay rành nghề cung nỏ. Lạy Chúa, Ngài ban
ơn cứu độ làm khiên mộc chở che con. Ngài đưa tay uy quyền nâng đỡ, săn sóc ân cần
giúp con lớn mạnh. Đường con đi, Chúa mở rộng thênh thang, chân con bước không bao
giờ lảo đảo” (Thánh Vịnh 18,31-37).
(Albert Pfleger, ”FIORETTI DE LA
VIERGE MARIE”, Mambre Editeur 1992, trang 37-38 + 75)