Một số nhận định của Daniel Marguerat, giáo sư Kinh Thánh Tân Ước tại đại học Lausanne,
Thụy Sĩ, về ”thánh Phaolo, con người của hai nền văn hóa”
Sáng thứ tư mùng
2-7-2008 Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã bắt đầu loạt bài giáo lý mới về thánh Phaolô.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã trình bày bối cảnh xã hội văn hóa thời thánh Phaolô
hồi thế kỷ thứ I, và khẳng định rằng nó cần thiết vì giúp chúng ta hiểu con người,
tư tưởng và các giáo huấn của thánh nhân. Thánh Phaolô là người do thái, được giáo
dục và lớn lên trong phong tục tập quán do thái và được giáo dục để trở thành một
rabbi do thái. Nhưng thánh nhân nói tiếng hy lạp và cũng là một Kitô hữu, sau cuộc
gặp gỡ đổi đời với Chúa Kitô phục sinh.
Sau đậy chúng tôi xin gửi tới qúy
vị và các bạn một số nhận định của ông Daniel Marguerat, giáo sư Kinh Thánh Tân Ước
tại đại học Lausanne, Thụy Sĩ, về ”thánh Phaolô, con người của hai nền văn hóa”.
Hỏi: Thưa giáo sư Marguerat, thánh Phaolô là một con người
có nhiều mặt: Tông Đồ, người giảng thuyết, nhà truyền
giáo, người đặc trách cộng đoàn, nhà thần học
vv... Theo giáo sư, đâu là nhân tố của sư khác biệt này?
Đáp: Cái nút thắt của con người thánh Phaolô đó là từ vựng ”người giải thích”.
Thánh nhân là người của Chúa Quan Phòng đã biết giải thích truyền thống của Đức Giêsu
và cho phép Kitô giáo phát triển như là một tôn giáo đại đồng. Trong nghĩa này thánh
nhân là người sáng ngời nhất giữa tất cả mọi gương mặt của Kitô giáo thời tiên khởi.
Thánh nhân không phải là người đầu tiên, cũng không phải là người duy nhất lao mình
vào cuộc mạo hiểm giải thích này, nhưng ngài là người có khiếu nhất.
Hỏi:
Có cái gì cho biết kiểu giải thich của thánh Phaolô sẽ thắng thế thưa giáo
sư?
Đáp: Từ một quan điểm thực dụng, ban đầu thánh nhân đã thành
công trong hoạt động truyền giáo. Thánh Phaolo là một người có các cộng sự viên, biết
làm việc theo nhóm, có hệ thống nối kết. Người ta thường tưởng tượng là thánh nhân
chỉ làm việc một mình, nhưng thật ra không phải vậy! Chỉ vì người ta thường không
biết tới hệ thống truyền giáo của thánh nhân, gồm nhiều cộng sự viên, là yếu tố hướng
dẫn công tác truyền giáo hữu hiệu nhất thời xa xưa.
Nhưng nhất là thánh Phaolô
là người của hai nền văn hóa: nền văn hóa do thái và nền văn hóa hy lạp latinh. Ngài
là một người biệt phái, thuộc phe khắt khe của Do thái giáo trong tư tưởng, trong
việc chú giải sách Luật và áp dụng lễ nghi vào cuộc sống cá nhân. Ngài cũng là một
người hoàn toàn có khả năng sử dụng biện chứng pháp và khoa hùng biện hy lạp roma,
mà chắc chắn là ngài đã học được từ trường học khắc kỷ thành Tarso, là trường dậy
triết lý khắc kỷ lớn nhất của vùng đông Địa Trung Hải. Thánh Phaolô tham dự vào ngã
tư văn hóa đó, vì thế tư tưởng của ngài sẽ cho phép Kitô giáo rời bỏ qũy đạo gốc của
Do thái giáo, để rộng mở cho tính cách vũ hoàn của thế giới.
Hỏi: Chúng
ta có thể xác định kiểu thánh nhân loan báo Tin Mừng trong các nền
văn hóa hoàn toàn không hề biết gì về Tin Mừng hay không?
Đáp:
Khó mà có thể nắm bắt được việc giảng giải đầu tiên của thánh nhân, vì các bút tích
của ngài được viết ra trong giai đoạn sau hết của cuộc đời. Chúng ta không có gì liên
quan tới thời gian giảng dậy đầu tiên này, nhưng một cách nào đó có được một ít trong
giai đoạn thứ hai. Điều mà ít nhất chúng ta có thể thấy trong các thư của người: đó
là thánh Phaolô đề nghị một nền thần học đoạn tuyệt, bẻ gẫy với qúa khứ. Ngài sử dụng
tư tưởng gây ”sốc” mạnh, chẳng hạn như loan báo thập giá như là ”sự vấp phạm” đối
với người do thái, và sự ”điên dại” đối với dân ngoại.
Thập giá là ”gương
mù gương xấu, là điều gây vấp phạm”, vì nó trưng bầy một Đấng Cứu Thế giòn mỏng yếu
đuối, không thể chấp nhận được đối với truyền thống do thái. Nó là sự điên dại đối
với người ngoại giáo: thánh nhân ám chỉ việc kiếm tìm sự khôn ngoan của triết học
hy lạp, một sự kiếm tìm vừa triết lý vừa tôn giáo, dẫn đưa tới các nguyên tắc cấu
trúc thế giới. Đối với sự khôn ngoan đó, thì lý trí là một phần của sự tìm kiếm Thiên
Chúa: Cần phải cho thấy Thiên Chúa tự đồng hóa với trật tự thế giới như thế nào.
Như vậy trong bối cảnh đó, loan báo rằng Thiên Chúa tự mạc khải trong một thân xác
bị treo trân thập giá thì vừa phi lý vừa vô lý. Thánh Phaolô rất thành công trong
việc diễn tả, qua ngôn ngữ của hai nền văn hóa, làm thế nào mà Thiên Chúa lại có thể
tự biểu lộ trên Thập Giá là một vì Thiên Chúa vượt thoát sự tìm hiểu, vượt thoát sự
chờ đợi và sự tưởng tượng của mọi tìm kiếm tôn giáo.
Hỏi: Đâu là
chỗ của kinh nghiệm cá nhân trong nền thần học của thánh Phalô thưa giáo sư?
Đáp: Thánh Phaolô là một người rất bẽn lẽn, kín đáo. Ngài không phải là một người
thích phô trương tôn giáo. Dĩ nhiên, ngài đã không bao giờ chối bỏ sự hoán cải và
qúa khứ là người bách hại Giáo Hội, cũng như sự kiện cuộc đời ngài đã được chính Chúa
Kitô thay đổi. Nếu thánh nhân có nhắc lại những điều đó, thì không bao giờ để đề cao
cái ”tôi” của ngài, nhưng luôn luôn để bầy tỏ hoạt động của Thiên Chúa nơi ngài và
qua ngài. Phaolô đọc lại trong nhãn quan thần học cuộc đổi đời của mình. Thần học
của ngài là thần học của sự đoạn tuyệt, tương đương với sự đoạn tuyệt với qúa khứ
trong cuộc sống của ngài. Nếu thánh Phaolô đã có thể mạnh mẽ loan báo sự cáo chung
của Torah của Luật Lệ như con đường cứu rỗi và sự mạc khải của một Thiên Chúa, và
đảo lộn hình ảnh Thiên Chúa mà chúng ta tưởng tượng ra, thì chính là bởi vì hai khẳng
định này tương đương với điều thánh nhân đã sống trong chính con người của ngài.
Hỏi: Thưa giáo sư, gương mặt thánh Phaolô có thể giúp gì cho việc nghĩ
tới tình hình của Kitô hữu ngày nay hay không?
Đáp: Điều khiến
cho chúng ta gần gũi với tình trạng của thánh Phaolô đó là việc khám phá ra rằng:
Kitô giáo ngày nay tiếp tục là một thiểu số trong một xã hội có cảnh công khai buôn
bán và cạnh tranh tôn giáo, và Kitô giáo phải biện minh cho lý do hiện hữu của mình.
Trong bối cảnh đó, thánh Phaolô dậy cho chúng ta biết công thức hóa căn tính Kitô
như một căn cước rộng mở. Thật thế, trọng tâm nền thần học của thánh nhân đó là việc
đến với Thiên Chúa không còn tùy thuộc vào một chủng tộc, không tùy thuộc lịch sử
phái tính hay các thành tích tôn giáo nữa. Đó là điều chúng ta gọi là sự công chính
hóa nhờ lòng tin. Sự tiếp đón mà Thiên Chúa dành để cho chúng ta là sự tiếp đón vô
điều kiện. Từ đó thánh Phaolô thành lập các cộng đoàn phản ánh điều thánh nhân tin:
các cộng đoàn, trong đó các người nam nữ, chủ nhân và nô lệ, do thái và hy lạp nhận
biết nhau và cùng chia sẻ một thực thể là ”thân mình của Chúa Kitô”, và mỗi người
đều bình đẳng trong quyền lợi, trách nhiệm và ơn gọi. Đó là các ”cộng đoàn các môn
đệ bình đẳng”, theo kiểu nói của học giả Elisabeth Schuessler Fiorenza. Chính vì thế
biến thánh Phaolô trở thành một người ”chống nữ giới”, như người ta thường lập lại,
thì không phải chỉ là phạm lỗi sai thời đại, mà còn là đọc sai thời đại nữa... Nhưng
đó không phải là điều lạ lùng gì: thánh Phaolô đã thường bị người ta đọc sai biết
bao nhiêu!
Hỏi: Trên đây giáo sư đã nói tới căn cước
rộng mở, nhưng vài cộng đoàn Kitô nào đó có thể
đòi cho mình quyền tham chiếu thánh Phaolô mà vẫn khép kín thì sao thưa
giáo sư...
Đáp: Đúng thế, thánh Phaolô có thể bị người ta tịch
thu. Nhưng sự có sự khác biệt: đó là cuộc đối thoại cởi mở của thánh Phaolô với nền
văn hóa. Các cộng đoàn khép kín có cái nhìn tiêu cực đối với thế giới và bi quan đối
với văn hóa.
Chúng thường có một cái nhìn đầy tai ương đối với lịch sử. Các
cộng đoàn này khước từ sự tân tiến và ra khỏi thế giới. Trái lại, thánh Phaolô rao
giảng sự khác biệt đối với xã hội, một sự khác biệt cho thấy phẩm chất các tương quan
nhân bản và các giá trị, mà tín hữu Kitô có thể cống hiến cho mọi người, nhưng thánh
nhân không bao giờ trừ qủy thế giới và nền văn hóa của nó. Ngài bước vào cuộc tranh
luận. Ngài bước vào lòng đời. Do đó thánh Phaolô không thể là biểu hiệu của các phong
trào tách rời, chia rẽ phe đảng hay duy toàn vẹn được.
Hỏi: Giáo
sư ưa thích điều gì nhất nơi thánh Phaolô?
Đáp: Một
cách mâu thuẫn điều tôi đánh giá cao nhất nơi thánh nhân đó là óc khôi hài của ngài.
Đọc các thư của thánh Phaolô không phải là một việc đặc biệt tức cười đâu! Điều mà
tôi gọi là khôi hài, đó là khả năng giữ khoảng cách với điều chúng ta sống. Thí dụ
tại Côrintô, khi thánh Phaolô bị tố cáo là một người giảng thuyết tồi, có triều thiên
đặc sủng dễ bị người khác lấy mất, thì thánh nhân đã phản ứng với óc khôi hài. Ngài
trả lời: Anh chị em hoàn toàn có lý. Nói cho cùng điều duy nhất tôi có thể khoe khoang
là một chuỗi các khốn khổ của tôi thôi: tôi đã bị cầm tù, bị đánh đòn, tôi đã bị đắm
tầu nhiều lần... Nhưng nếu tôi có thể nói là tôi khoe khoang về điều đó, thì chính
bởi vì Thiên Chúa đã cứu thoát tôi khỏi các hiểm nguy ấy. Sự kiện đã vượt qua các
thử thách này là dấu chỉ ơn thánh của Chúa hoạt động qua tôi”.
Như thế thánh
Phaolô cho thấy điều người ta trách cứ ngài - sự thất bại - lại chính là cái xây dựng
sự đích thật ơn gọi của ngài. Đó là óc khôi hài tin mừng: cho thấy làm sao trong sự
yếu đuối giòn mỏng và trong sự chế nhạo lại biểu lộ quyền năng bí mật của Thiên Chúa
của thập giá. Tin Mừng của thánh Phaolô vĩnh viễn đoạn tuyệt với một ý thức hệ của
thành tích.