Con được may mắn sinh ra và lớn lên trong một gia đình Công Giáo lâu đời và đạo đức.
Mỗi sáng, tất cả anh chị em chúng con phải thức dậy thật sớm để đi tham dự Thánh Lễ.
Nếu đứa nào làm biếng không đi lễ thì mẹ con phạt không cho ăn sáng.
Gia đình
chúng con sống tại thành phố Neyveli, miền Nam Ấn Độ. Giáo xứ chúng con rất linh hoạt
nhờ tinh thần mục vụ hăng say của Cha Sở - Linh Mục người Pháp thuộc Hội Thừa Sai
Paris - và hai Cha Phó trẻ người Ấn Độ. Nhóm con nít chúng con rất thích lui
tới nhà xứ để gặp gỡ các Linh Mục. Phần đông giới trẻ gia nhập ca đoàn. Chúng con
vui vẻ giúp quét dọn nhà thờ nhà xứ. Chúa nhật, sau Thánh Lễ dành cho giới trẻ, chúng
con cùng nhau nô đùa nơi sân nhà xứ. Hàng năm chúng con rất mong mau đến Lễ Giáng
Sinh. Ngay từ đầu tháng 12, chúng con bắt đầu nhộn nhịp chuẩn bị mừng lễ. Mỗi Chúa
Nhật suốt trong tháng 12, chúng con chia nhau đi hát Thánh Ca Giáng Sinh trong các
gia đình và nơi các đường phố.
Năm con lên 10 tuổi, một ngày có nhóm các Nữ
Tu Thừa Sai Paris đến thăm Cha Sở. Nhân dịp này, Cha Sở nói với chúng con về cuộc
sống tận hiến cho THIÊN CHÚA và xả thân phục vụ người nghèo của các chị. Lời lẽ của
Cha Sở làm con xúc động sâu xa. Trong tâm trí non nớt lúc bấy giờ, con ước ao có cuộc
sống giống như Các Chị. Từ đó, mỗi ngày sau Thánh Lễ, con thường quỳ lại nơi nhà thờ
và tha thiết xin Chúa cho con có ơn kêu gọi. Giờ đây hồi tưởng lại, con thấy rằng:
- Chính bầu khí cầu nguyện chung trong gia đình mỗi ngày và sự hỗ trợ của các Linh
Mục trông coi xứ đạo đã gieo mầm giống ơn gọi nơi tâm hồn con.
Đến tuổi trưởng
thành, con bày tỏ ước nguyện dâng mình cho Chúa, nhưng Ba Má con không chấp thuận,
đặc biệt thân phụ con. Người cương quyết từ chối. Nhưng rồi suy nghĩ lại, người bằng
lòng cho con đi tu.
Trước khi gia nhập Dòng Nữ Tu Thừa Sai Paris, con được
huấn luyện để trở thành ”Nhân viên y tế”, chăm sóc sức khoẻ cho dân làng. Nền huấn
luyện này rất hữu ích cho công tác tông đồ của con sau đó, trong tư cách là nữ tu
thừa sai, làm việc bên cạnh người nghèo.
Khi thực tập để trở thành nhân viên
y tế thực thụ, con được gửi đến làm việc trong một làng rộng lớn. Mỗi ngày con thăm
viếng các gia đình để biết rõ điều kiện sống và tình trạng sức khoẻ của dân làng.
Các cuộc viếng thăm giúp con hiểu rõ các gia đình nghèo. Thật là một kinh nghiệm vô
cùng quý báu. Đó là kinh nghiệm chia sẻ niềm vui nỗi khổ của người nghèo. Tục ngữ
có câu:
Sau khi gia nhập dòng tu và khấn dòng,
con được chỉ định làm việc tại một làng, nơi có Trung Tâm bài trừ bệnh phong cùi và
giúp phát triển nông thôn. Sau đó, con được chuyển về làm việc tại một huyện có gần
6000 dân cư, chia thành 18 thôn xóm. Người dân các làng này đa số thuộc giai cấp ”cùng
đinh”. Chỉ có 15% thuộc giai cấp khá giả một chút. Các Nữ Tu Thừa Sai đặc biệt làm
việc với phụ nữ. Chúng con chia thành nhóm nhỏ 6 người, vừa nữ tu vừa các bà mẹ gia
đình. Các nhóm này hoạt động rất hữu hiệu bên cạnh chính quyền.
Chúng con
thường tổ chức các khóa huấn luyện, giúp các bà mẹ hiểu vấn đề sức khoẻ của con cái
còn nhỏ tuổi và vấn đề tinh thần của những đứa con ở lứa tuổi dậy thì. Đối với các
bà mẹ phụ trách các nhóm thì chúng con mời các nữ bác sĩ và các giáo sư đến nói chuyện
với họ.
Hằng năm khi đến 8-3 / ngày phụ nữ, chúng con cử hành ngày này với
buổi nói chuyện, trình diễn văn nghệ, trao quà và sau cùng là CẦU NGUYỆN. Ngày 8-3
thường trôi qua trong bầu khí tươi vui huynh đệ và rất đạo đức. Mọi người đều hài
lòng khi chia tay ra về.
Chứng từ của chị Christy, nữ tu Thừa Sai
Paris, người Ấn Độ.
... ”Những người
kính sợ THIÊN CHÚA sẽ được sống lâu dài, vì họ cậy trông vào
Đấng cứu thoát họ. Ai kính sợ THIÊN CHÚA thì không sợ hãi gì. Họ không run
rẩy, vì chính nơi Người, họ hằng cậy trông. Phúc thay tâm hồn kính sợ
THIÊN CHÚA! Họ nương tựa vào ai? Và ai nâng đỡ họ?
THIÊN CHÚA để mắt trông nom những ai yêu mến Người. Người
là khiên mộc vững chắc, là sức mạnh đỡ nâng, là tàn che gió nóng, là
bóng mát giữa trưa. Người giữ gìn cho khỏi vấp ngã, và bảo vệ cho khỏi
té nhào. Người nâng cao tâm hồn, sáng soi con mắt. Người ban
sức khoẻ, sự sống và phúc lành” (Sách Huấn Ca 34,13-17)
(”Missions
Étrangères de Paris”, Septembre-Octobre 1995, trang 241-245)