- Lạy Chúa, đại dương Chúa quá bao
la mà chiếc thuyền con quá bé nhỏ. Xin Chúa giúp con!
Đó là lời nguyện Cha Gioan-Phaolo Saimu cho in trên tấm ảnh lưu niệm ngày Cha
được hồng phúc lãnh thiên chức Linh Mục, 25-5-1996. Cha là Linh Mục đầu tiên của sắc
tộc thiểu số Karen, sống ở miền Bắc Thái Lan gần biên giới Miến-Điện, ngày nay là
Myanmar. Con đường ơn gọi của Cha Saimu được Cha Gabriel Tygreat, Linh Mục Hội Thừa
Sai Paris (MEP) kể lại.
Hồi ấy là năm 1973. Tôi mới đến truyền giáo tại Thái
Lan. Trước đó hai năm, tôi mở một trường tiểu học trong làng Chongkeêb, dành cho người
Karen. Vào thời kỳ đó, không một làng nào của người Karen có trường học. Vì trong
vùng chưa có tín hữu Công Giáo nên tôi dành trọn thời giờ cho trường học.
Mục đích của tôi là giúp sắc dân Karen có kiến thức cơ bản tối thiểu. Tôi chọn các
giáo viên người Karen, am tường về ngôn ngữ trẻ em. Tôi chăm sóc cách riêng các trẻ
mồ côi Karen. Phần đông chúng không được đến trường, vì cha mẹ nuôi thường bắt chúng
phải làm việc cho họ. Tôi đem về nhà nuôi khoảng 6,7 em mồ côi để chúng có thể học
đọc và viết.
Ban đầu, tôi để ý thấy một bé trai thường đến trường - sau giờ
học - và chơi chung với các trẻ mồ côi. Bé trai nói tiếng Karen. Tôi hỏi chuyện thì
bé cho biết tên Saimu và sống bên kia biên giới Thái, trong một làng của Miến-Điện.
Nhưng vì người Miến-Điện bao vây làng Karen nên mẹ bé và bé chạy sang bên này lánh
nạn. Các anh trai của bé thì ở lại để giữ làng. Tôi liền bảo:
- Trong thời
gian ở đây, con nên đến trường học chung với các bạn mới của con!
Bé nhận
lời ngay, không do dự. Bé xin mẹ đến ở chung với các trẻ mồ côi của tôi.
Rất
nhanh sau đó, tôi khám phá Saimu là cậu bé chuyên cần, kỷ luật và thông minh. Cậu
bé luôn dẫn đầu lớp .. Thế nhưng, vào một buổi sáng, khi vừa dâng Thánh Lễ xong, bước
ra khỏi nhà nguyện, tôi trông thấy Saimu cùng mẹ đến chào từ biệt tôi. Tiếng súng
đã im nên hai mẹ con trở về làng cũ. Tôi hỏi Saimu:
- Con không muốn ở lại
đây để tiếp tục học sao? Bởi vì, về bên kia, rất có thể con sẽ không được đến trường
thường xuyên, vì người Miến-Điện tìm đến quấy phá người Karen, do đó trường học hay
bị đóng cửa?
Lần này cũng thế, Saimu không do dự một giây. Cậu bé để mẹ đi
về một mình, cậu ở lại với tôi.
Sau bậc tiểu học, Saimu xin tôi lãnh bí tích
Rửa Tội và chọn tên thánh là Gioan-Phaolo, tên của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II
vừa mới được bầu làm chủ chăn Giáo Hội Hoàn Vũ vào đúng năm đó, 1978!
Gioan-Phaolo
Saimu tiếp tục là học sinh chuyên cần, kỷ luật và xuất sắc. Cậu bé lập đi lập lại
với tôi là cậu ao ước trở thành Linh Mục. Tôi gởi Saimu đến trường trung học Công
Giáo Thánh-Nicolas do Cha Pierre Laborie điều khiển.
Saimu giữ kỷ niệm thật
đẹp về thời gian học tại đây. Sau này Saimu thổ lộ với tôi:
- Chính trong
thời gian này mà con học biết và yêu thích cầu nguyện, dưới sự dẫn dắt của Cha Pierre
Laborie.
Khi lên bậc trung học đệ nhị cấp thì tôi lại chuyển Saimu sang trường
Các Sư Huynh La-San. Các Sư Huynh có thói quen hướng dẫn cách riêng những học sinh
có ước muốn trở thành Linh Mục hay tu sĩ. Saimu xin ghi tên vào đại chủng viện ở thủ
đô Bangkok.
Mãn bốn năm triết, thầy Saimu xin ngừng một năm để đi hoạt động
mục vụ nơi các làng người Karen. Thầy được dân làng rất mực quý mến. Sau thời gian
thực tập, thầy trở lại chủng viện và học tiếp thần học, chuẩn bị lãnh chức Linh Mục.
Càng tiến tới ngày thụ phong, thầy Saimu lại đâm ra hoang mang lo lắng. Không phải
hoang mang về ơn gọi Linh Mục, nhưng về khung cảnh mục vụ. Rồi đây, thầy sẽ là Linh
Mục trẻ đầu tiên của người Karen giữa đoàn Linh Mục cao tuổi người Thái. Khác biệt
này có thể gây ra mặc cảm giữa đôi bên. Một bên tự ti và bên kia lại tự tôn!
Dầu suy nghĩ lo lắng như thế, thầy Saimu đã thắng vượt tất cả và nhất quyết tiến tới.
Sau cùng, ngày hồng phúc, ngày mong đợi của tôi gần 20 năm qua đã đến.
Thầy
Gioan-Phaolo Saimu thu phong Linh Mục ngày 25-5-1996. Thầy được chịu chức tại trung
tâm người Karen của giáo phận. Một tuần sau, tân Linh Mục dâng Thánh Lễ mở tay tại
nhà thờ xứ đạo Chongkeêb, nơi tân Linh Mục đã lãnh bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và xưng
tội cùng rước lễ lần đầu.
Hồng Ân THIÊN CHÚA bao la. Muôn đời con sẽ ngợi
ca ơn Người.
... ”Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ,
là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó;
nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không
nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau
bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng
nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn,
không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa
cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được
nó chỉ bảo” (Isaia 42,1-4).
(”Missions Étrangères de Paris”, n.314,
Décembre/1996, trang 295-298)