Boezio và Cassiodoro: hai giáo phụ của sự đối thoại, gặp gỡ và hòa giải giữa các nền
văn hóa khác nhau
Buổi tiếp kiến sáng thứ tư 12-3-2008
Trong buổi tiếp tín hữu và du khách hàng
hương sáng thứ tư 12-3-2008, Đức Thánh Cha đã giới thiệu gương mặt của hai tác giả
Kitô khác sống vào thế kỷ thứ V-VI: đó là Boezio và Cassiodoro.
Boezio sinh
tại Roma năm 480 và thuộc hàng qúy tộc Anicii. Ngay từ ngày còn trẻ đã dấn thân vào
cuộc sống chính trị nên mới 25 tuổi đã trở thành thượng nghị sĩ. Trung thành với truyền
thống gia đình ông dấn thân tham gia chính trị với xác tín có thể dung hòa các đường
lối hướng dẫn cuộc sống xã hội Roma với các giá trị của các dân tộc mới. Trong bối
cảnh gặp gỡ giữa các nền văn hóa thời đó Boezio cho rằng mình có sứ mệnh giao hòa
và liên kết nền văn hóa Roma và nền văn hóa mới nảy sinh của người Ostrogoti thống
trị Italia thời đó, dưới sự lãnh đạo của vua Teodorico.
Tuy tham gia nhiều
sinh hoạt chính trị, Boezio không lơ là việc nghiên cứu, đặc biệt trong lãnh vực triết
lý tôn giáo. Nhưng ông cũng viết các sách toán học, hình học, âm nhạc, và thiên văn:
tất cả nhằm thông truyền kho tàng văn hóa hy lạp roma cho các thế hệ đến sau. Trong
dấn thân thăng tiến sự gặp gỡ giữa các nền văn hóa đó Boezio đã dùng các phạm trù
của triết lý hy lạp để đề nghị lòng tin Kitô với mọi người, bằng cách tìm kiếm sự
tổng hợp giữa gia tài văn hóa hy lạp roma và sứ điệp tin mừng. Vì thế ông được coi
là người đại diện cuối cùng của nền văn hóa roma cổ và là người trí thức đầu tiên
của thời trung cổ.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Boezio là cuốn ”De consolatione
philosophiae - Niềm an ủi của triết học”, được sáng tác trong tù và nhằm mục đích
trao ban ý nghĩa cho việc bị bỏ tù bất công. Boezio bị vua Teodorico bỏ tù vì bênh
vực một thượng nghị nghĩ bạn là Albino. Nhưng đó chỉ là cớ, thật ra vua Teodorico
theo bè rối Ariano và là người mọi rợ. Nhà vua nghi ngờ Boezio có cảm tình với hoàng
đế Bisantin Giustiniano. Boezio bị kết án và xử tử ngày 23 tháng 10 năm 524 khi mới
có 44 tuổi. Chính kinh nghiệm bị kết án bất công khiến cho Boezio cũng nói với con
người thời nay, đặc biệt với biết bao nhiêu người phải gánh chịu cùng các bất công
như thế.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói Trong tác phẩm ”Niềm an ủi
của triết học” Boezio kiếm tìm sự ủi an, ánh sáng và sự khôn ngoan. Chính trong hoàn
cảnh bị tù đầy đó ông nói đã biết phân biệt giữa của cải bề ngoài và của cải dích
thật, cũng như tình bạn đích thật cả trong tù cũng không biến mất. Thiện ích tối hậu
là Thiên Chúa. Boezio học biết và dậy cho chúng ta biết không rơi vào khuynh hướng
yếm thế dập tắt niềm hy vọng. Ông dậy cho chúng ta biết rằng chính Sự Quan Phòng cai
qủan đời mình chứ không phải sự kiện. Sự Quan Phòng đó là Thiên Chúa. Đức Thánh Cha
nói thêm:
Như vậy cả khi ở trong tù cũng có thể cầu nguyện và đối thoại với
Đấng Cứu Độ chúng ta. Đồng thời cũng trong hoàn cảnh ấy ông duy trì được ý thức về
vẻ đẹp của nền văn hóa và gợi lại giáo huấn của các triết gia hy lạp và roma cổ xưa
như Platone, Aristotile, Cicerone, Seneca và cả các thi sĩ như Tibullo và Virgilio,
và ông bắt đầu dịch tác phẩm của các triết gia Platone và Aristotile từ tiếng hy lạp
ra tiếng latinh.
Triết lý, trong nghĩa tìm hiểu sự khôn ngoan đích thật, theo
Boezio là thuốc chữa linh hồn (lib. I). Đàng khác, con người chỉ có thể sống kinh
nghiệm hạnh phúc đích thật trong nội tâm mình (lib. II). Vì thế Boezio thành công
trong việc tìm ra một ý nghĩa khi suy tư về thảm cảnh cá nhân của mình dưới ánh sáng
của một văn bản kinh thánh cựu ước (Kn 7,30-8,1): ”Cái gian ác không thể chiến thắng
sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan trải dài từ ranh giới này sang ranh giới khác với sức
mạnh và cai quản mọi sự với sự tốt lành tuyệt diệu” (Lib III, 12; PL 63, col.780).
Sự thịnh đạt của người gian ác vén mở cho thấy nó là dối trá (lib. IV) và cho thấy
tỏ tường bản chất quan phòng của số phận trái nghịch. Các khó khăn của cuộc đời không
chỉ vén mở cho thấy cuộc sống bèo bọt mau qua, mà cũng chứng minh cho thấy chúng có
ích cho việc nhận diện và duy trì các tương quan đích thật giữa con người với nhau.
Nghịch cảnh cho phép phân định các bè bạn giả dối với các bè bạn đích thật và giúp
hiểu rằng đối với con người chẳng có gì qúy báu hơn là tình bạn đích thật. Chịu trận
chấp nhận một điều kiện khổ đau là điều tuyệt đối nguy hiểm, vì nó ”loại bỏ từ gốc
rễ khả thể của lời cầu nguyện và niềm hy vọng là nền tảng tương quan của con người
với Thiên Chúa” (Lib. V, 3: PL 63, col.842).
Phần cuối của tác phẩm là một
tổng hợp toàn giáo huấn Giáo Phụ Boezio nói với chính mình và với tất cả những ai
cùng chịu cảnh tù tội bất công. Giáo phụ nhắn nhủ phải chiến đấu với các tính xấu,
sống đạo đức hy vọng trong kinh nguyện và lòng khiêm tốn, khước từ nói dối và hãy
luôn có trước mắt hình ảnh Đấng Thẩm Phán tối cao thấu suốt mọi sự. Là người bị bỏ
tù vì các xác tín lý tưởng, chính trị và tôn giáo Boezio biểu tượng cho vô số các
người bị nhốt tù bất công thuộc mọi thời đại khắp nơi trên thế giới này và là cánh
cửa dẫn vào việc chiêm niệm Đấng bị đóng đanh trên đồi Golgotha.
Đồng thời
với Boezio có Marco Aurelio Cassiodoro, gốc vùng Calabria nam Italia, sinh năm 485
tại Squillace và qua đời năm 580. Thuộc giai cấp thượng lưu ông cũng dấn thân trong
lãnh vực chính trị và văn hóa và thuộc hàng ưu tuyển như Boezio và Đức Giáo Hoàng
Gregorio Cả (590-604). Ý thức được sự cần thiết phải duy trì gia tài nhân bản và nhân
văn đích thực dọc dài các thế kỷ, Cassiodoro quảng đại cộng tác với các dân tộc mới
đã vượt biên giới đế quốc và vào sinh sống tại Italia. Ông cũng là mẫu gương của cuộc
gặp gỡ văn hóa, đối thoại và hòa giải. Các biến cố chính trị đã không cho phép ông
thực hiện các giấc mộng chính trị văn hóa nhằm tổng hợp truyền thống roma kitô với
nền văn hóa mới của người Goti. Nhưng chúng đã khiến cho ông xác tín được tầm quan
trọng của phong trào viện tu bắt đầu đâm rễ sâu trên các vùng đất Kitô. Vì thế ông
đầu tư của cải vật chất và sức mạnh tinh thần cho chương trình này. Đức Thánh Cha
giải thích dấn thân của ông như sau:
Ông nảy ra tư tưởng giao phó cho các
tu sĩ nhiệm vụ hồi phục, duy trì và truyền lại cho hậu thế gia tài văn hóa mênh mông
của người xưa, để nó khỏi mai một. Vì thế ông cho thành lập tu viện Vivarium, trong
đó tất cả được tổ chức như là một nơi làm việc trí thức rất qúy báu và không thể khước
từ được của các tu sĩ. Ông cũng thiết định rằng các tu sĩ không được đào tạo về mặt
trí thức cũng phải sao chép các thủ bản cổ, chứ không chỉ chuyên làm việc đồng áng
mà thôi. Công việc sao chép này không thiệt hại gì cho đời sống tinh thần và công
tác bác ái đối với người nghèo.
Giáo huấn của Cassiodoro được trình bày trong
nhiều tác phẩm, đặc biệt là hai cuốn ”De anima” và ”Institutiones divinarum litterarum”
bàn về lời cầu nguyện và tầm quan trọng của các Thánh vịnh, giúp nếm hưởng sự ngọt
ngào của các lời kinh. Mục đích đời đan tu là kiếm tìm Thiên Chúa và hướng tới việc
chiêm niệm. Với ơn thánh Chúa có thể đạt tới hiệu qủa tốt lành hơn của Lời mạc khải
nhờ việc sử dụng các kết qủa khoa hoc và dụng cụ văn hóa đời đã được người Hy lạp
và Roma thủ đắc (Pl 69, col.1140). Cassiodoro cũng nghiên cứu triết học, thần học
và chú giải Kinh Thánh, nhưng không đạt nhiều kết qủa. Giáo Phụ rất chăm chỉ đọc các
tác phẩm của thánh Girolamo và thánh Agostino và cho rằng không có gì mà đã không
được thánh Agostino bàn thảo tới. Trích lại tư tưởng của thánh Girolamo giáo phụ khẳng
định rằng khi các tu sĩ chỉ chú ý tới Chúa Kitô thôi, thì sẽ thắng vượt được các tật
xấu của thân xác, duy trì được lòng tin ngay thẳng và chiến thắng các cám dỗ rủ rê
của thế gian. Lời cảnh cáo này cũng có giá trị đối với chúng ta ngày nay đang sống
trong cuộc gặp gỡ giữa các nền văn hóa và hiểm nguy của bạo lực tàn phá các nền văn
hóa. Cần phải dấn thân thông truyền cho các thế hệ mới các giá tri lớn và dậy cho
họ biết con đường hòa giải và hòa bình.
Trước khi tiếp tín hữu trong đại thính
đường Phaolo VI Đức Thánh Cha đã chào hơn 4.000 sinh viên học sinh các trường Italia
và các nhóm dân ca vũ vùng Friuli Venezia. Ngài mời gọi các giới chức học đường cống
hiến cho các bạn trẻ cơ may đào sâu các sứ điệp có giá trị văn hóa xã hội luân lý
và tôn giáo.
Sau khi chào nhiều nhóm khác nhau Đức Thánh Cha đã cất kinh Lậy
Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.