Xuyên qua con đường hẽm của thành phố Quảng Châu, miền Nam Trung Quốc, chằng chịt
người đi bộ và đi xe đạp với những sinh hoạt lặng lẽ về đêm, tôi lần mò tìm ra căn
nhà tôi muốn đến.
Bước vào căn phòng đầy băng ghế gỗ sơ sài, tôi thấy có mặt
khoảng 20 người, đang quỳ trên nền nhà bằng bêtông: các sinh viên mặc quần jeans,
những người trẻ mặc đồ bộ và các phụ nữ cao tuổi. Tất cả đang sốt sắng đọc kinh và
hát thánh ca. Tôi hiểu ngay mình đang chứng kiến tận mắt hình ảnh sống động ”hầm trú”
của Giáo Hội Kitô tại Trung Quốc, giống y như đời sống trong các hang toại đạo xưa
kia của các tín hữu Kitô tiên khởi tại đế quốc La Mã.
Tất cả tín hữu Kitô
tham dự buổi cầu nguyện đều biết rõ đây là cuộc họp bị ngăn cấm. Công an nhà nước
có thể xuất hiện bất cứ lúc nào và bắt giam mọi người, đặc biệt vị lãnh đạo tinh thần
đang hướng dẫn buổi cầu nguyện. Đó là mục sư Lâm Hiến Cao. Với dáng người gầy còm
nhưng bên trong lại dấu ẩn cả một kho tàng đức tin bất khuất, kiên dũng. Sau bản thánh
ca cuối cùng, mục sư Lâm nói với các tín hữu:
- Giống như xưa kia Đức Chúa
GIÊSU rảo quanh các làng mạc phố xá của Thánh Địa để rao giảng Tin Mừng như thế nào,
ngày nay, chúng ta cũng phải mang Tin Mừng của Đức Chúa GIÊSU đến cho mọi người khác
y như vậy!
Giọng nói rõ ràng cương quyết của mục sư Lâm vang lên trong đêm
khuya, mang một sức mạnh vô song. Nó xuất phát từ vị chủ chăn từng sống 20 năm tù
trong các trại lao động khổ sai của chế độ cộng sản Trung Quốc. Không một quyền lực
vô thần nào, không một áp bức đe dọa nào có thể lay chuyển Đức Tin kiên dũng của mục
sư. Mục sư Lâm Hiến Cao trở thành vị chủ chăn Tin Lành nổi tiếng của Giáo Hội Kitô
thầm lặng Trung Quốc, và là biểu tượng của Đức Tin Kitô, bất khuất trước các quyền
lực sự dữ đang hoành hành tại Trung Quốc.
Năm 1949, lúc vừa nắm quyền, đảng
Cộng sản Trung Quốc bắt đầu ngay các cuộc đàn áp dữ dội. Hàng ngàn hàng vạn tín hữu
Tin Lành và Công Giáo bị bắt giam vì trung thành với Đức Tin. Năm đó mục sư Lâm đang
sống yên hàn ở Hong Kong. Nhưng tiếng Chúa gọi mục sư trở lại với đàn chiên tại Trung
Quốc. Mục sư không ngần ngại tuân phục thánh ý THIÊN CHÚA, trở về Quảng Châu, vào
năm 1950, lúc bấy giờ đang ngụp lặn trong một cuộc cách mạng đẫm máu và đàn áp tôn
giáo.
5 năm sau - tháng 9 năm 1955 - mục sư Lâm bị bắt và bị ở tù trong vòng
16 tháng. Vừa được trả tự do, mục sư lại bị bắt và bị kết án 20 năm lao động khổ sai
trong một hầm mỏ than. Thời gian này, để khỏi trở thành điên, mục sư Lâm thường đọc
thầm, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng nọ, những câu Kinh Thánh thuộc lòng.
Trong vòng 20 năm trời, trước không biết bao nhục hình phải chịu, mục sư Lâm không
bao giờ chối bỏ Đức Tin, cũng không bao giờ tiết lộ bất cứ danh tánh nào của các tín
hữu Kitô.
Được trả tự do vào ngày 29-5-1978, mục sư Lâm dạy Anh ngữ một thời
gian, với dụng cụ duy nhất là cuốn Kinh Thánh. Sau đó, mục sư bắt đầu lại các hoạt
động mục vụ. Ngày 22-2-1990, sau buổi kinh chiều, các công an ùa vào nhà mục sư lục
soát và tịch thu tất cả đồ đạc, sách báo tôn giáo. Họ liên tục chất vấn và ngăn cấm
mục sư không được giảng dạy Kinh Thánh. Trước mọi ngăm đe, đàn áp, mục sư Lâm chỉ
điềm tĩnh trả lời:
- Tôi từng sống 20 năm trong các trại tù của các ông. Do
đó không còn gì có thể làm tôi sợ hãi nữa!
Trước khi rời căn nhà mục sư Lâm
Hiến Cao, tôi hỏi:
- Mục sư có nghĩ mình sẽ bị bắt trở lại không?
Mục sư trả lời:
- Có thể lắm! Nhưng chúng tôi là tín hữu Kitô, do đó, khó
khăn thử thách sẽ giúp chúng tôi tiến đến gần Đức Chúa GIÊSU KITÔ hơn.
Ngừng
một lúc, mục sư Lâm bắt tay từ biệt tôi và chậm rãi nói:
- Xin hãy cầu nguyện
thật nhiều cho chúng tôi! Chứng từ của ông Fergus Bordewich.
... ”Chỉ có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng
với Tin Mừng của Đức Chúa KITÔ. Như thế, dù tôi
có đến thăm anh em hay vắng mặt đi nữa, tôi vẫn
muốn được nghe người ta nói về anh em là anh em
luôn đứng vững, cùng chung một tinh thần, một lòng một dạ, cùng nhau chiến
đấu vì Đức Tin mà Tin Mừng mang lại cho anh em. Về bất cứ
điều gì, đừng sợ những kẻ chống đối anh
em: đó là dấu chỉ cho thấy họ sẽ bị hư vong, còn đối
với anh em, thì lại là dấu chỉ ơn cứu độ. Điều
ấy là ân huệ THIÊN CHÚA ban. Quả thế, nhờ Đức Chúa KITÔ, anh
em đã được phúc chịu đau khổ vì Người.
Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã
thấy tôi phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe
biết là tôi vẫn còn tiếp tục” (Thư gửi tín hữu Philipphê 1,27-30).
(”Les Clandestins de Dieu”, Reader's Digest SÉLECTION, 1/1992, trang 41-46)