ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLO II: TIN TƯỞNG VÀ CẦU NGUYỆN
Trong cuộc đối thoại với văn thi sĩ Công Giáo Ba Lan Jaroslaw Mikolajewski, ông Arturo
Mari - cựu nhiếp ảnh gia tờ Quan Sát Viên Roma - đã gợi lại niềm tin tưởng tuyệt đối
của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II nơi THIÊN CHÚA và Đức Mẹ MARIA.
Hỏi:
Có đôi lúc Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã thức trắng
đêm dành trọn thời gian để quì gối cầu nguyện, có đúng
thế không?
Đáp: Đúng thế. Chuyện xảy ra là có những đêm
Đức Thánh Cha thức trắng quì gối cầu nguyện. Sáng hôm sau chúng tôi thấy Đức Thánh
Cha yếu hơn thường lệ. Những lúc ấy chúng tôi nói nhỏ với nhau là Đức Thánh Cha không
ngủ.
Đức Thánh Cha thường cầu nguyện nơi nhà nguyện riêng nhưng ngài cũng
cầu nguyện nơi ghế bành khi ngồi nghỉ trong phòng làm việc. Thật ra những giây phút
”nghỉ ngơi” theo đúng nghĩa ”nghỉ ngơi” ít khi xảy đến với Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo
II. Đức Thánh Cha cầu nguyện khi nhận tin người nào đó qua đời - chẳng hạn người bạn
thân hay người quen biết - hoặc ngài cầu nguyện cho nạn nhân các vụ khủng bố hay các
tai nạn. Đức Thánh Cha cầu nguyện khi biết có đất nước xứ sở nào đó trên thế giới
đang lâm tình trạng chính trị trầm trọng hoặc khi hay tin một cuộc chiến bùng nổ.
Đức Thánh Cha cầu nguyện khi gặp vấn đề khó khăn hoặc khi nhận tin không lành về hoàn
cảnh nào đó mà ngài phải giải quyết. Trong trường hợp ấy Đức Thánh Cha vào nhà nguyện
và ở lại cho đến khi vấn đề được giải quyết.
Đức Thánh Cha cầu nguyện thật
nhiều tại quốc gia ngài thăm viếng. Tôi nghĩ vào lúc ấy, Đức Thánh Cha cầu nguyện
cho vấn đề người dân địa phương, làm như thể Đức Thánh Cha đồng hóa với người dân
và cùng mang gánh nặng thống khổ của họ. Tôi nhớ rõ vào năm 1993 tại Vilnius, thủ
đô cộng hòa Lituani, Đức Thánh Cha quì gối cầu nguyện suốt trong 6 tiếng đồng hồ không
ngơi nghỉ .. Việc làm đầu tiên trong mỗi chuyến viếng thăm mục vụ của ngài là kính
viếng đền thánh Đức Mẹ.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II có lòng yêu mến đặc
biệt Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA. Tâm tình này biểu lộ rõ ràng cả trong những chuyến
hành hương. Đức Mẹ Đen Ba-Lan, Đức Mẹ Lộ-Đức, Đức Mẹ Fatima, Đức Bà Guadalupe. Đức
Thánh Cha âu yếm gọi Đức Bà Guadalupe là ”Đấng Bảo Trợ 2 Châu Mỹ”. Đức Thánh Cha luôn
nói ngài cảm thấy được Đức Mẹ che chở cách đặc biệt. Ngay trong vườn Vatican, mỗi
lần đi bách bộ, Đức Thánh Cha thường dừng lại nơi nhà nguyện dâng kính Đức Mẹ Lộ-Đức.
Đức Thánh Cha cũng dừng lại trước Tượng Đức Bà Guadalupe. Đây là bức tượng do chính
phủ Messicô dâng tặng. Và mỗi khi có thể, Đức Thánh Cha thường cầm trong tay tràng
chuỗi Mân Côi.
Khi đi dạo trên miền núi, lúc đi bách bộ hoặc khi lắng nghe
những bài thuyết trình dài, Đức Thánh Cha thường cầm chặt trong tay tràng chuỗi Mân
Côi. Đôi lúc người ta thấy Đức Thánh Cha cho tay vào túi, mân mê tràng chuỗi Mân Côi.
Đức Thánh Cha ngồi nghỉ với Tràng Chuỗi Mân Côi, bước đi với tràng chuỗi Mân Côi.
Với hầu hết mọi người, Đức Thánh Cha trao tặng tràng chuỗi Mân Côi kèm theo lời khuyên
siêng năng cầu nguyện. Và Đức Thánh Cha tắt thở với Tràng Chuỗi Mân Côi trong tay.
Hỏi: Xin ông Arturo Mari cho biết trong nhà nguyện riêng của Đức
Thánh Cha Gioan Phaolo II có đặt bức ảnh Đức Mẹ nào?
Đáp: Ảnh Đức Mẹ Đen Ba-Lan Czestochowa được đặt hoặc nơi nhà nguyện trong căn
hộ ở Vatican hoặc nơi nhà nguyện ở Castelgandolfo. Bức ảnh Đức Mẹ Đen đặt nơi nhà
nguyện ở Vatican Đức Thánh Cha nhận được sau mật nghị bầu Giáo Hoàng năm 1978. Trong
khi bức ảnh Đức Mẹ Đen đặt nơi nhà nguyện ở Castelgandolfo thì đã có từ trước, dưới
thời Đức Giáo Hoàng Pio XI (1922-1939). Bởi vì Đức Pio XI - tức là Đức Tổng Giám Mục
Achille Ratti - trước khi làm giáo hoàng đã làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Ba-Lan từ 1919-1921.
Nơi nhà nguyện riêng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II ở Vatican, bên cạnh Đức Mẹ
Đen có Cây Thánh Giá. Và mỗi lần cầu nguyện, hình như Đức Thánh Cha thưa chuyện với
Đức Chúa GIÊSU KITÔ, giống y như Đức Chúa GIÊSU đang đứng thật sự trước mặt Đức Thánh
Cha vậy! Và mỗi lần Đức Thánh Cha đang ở nhà nguyện thì phải ý tứ hết sức không được
quấy rầy ngài! Đó là những giây phút thánh thiêng.
Hỏi: Xin ông Arturo
Mari cho biết vào ngày thứ tư 13 tháng 5 năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolo II có sợ chết không?
Đáp: Không! Đức Thánh Cha chỉ tin tưởng
phó thác nơi Đức Mẹ MARIA. Khi xảy ra vụ ám sát nơi quảng trường Thánh Phêrô tôi đang
đứng gần đó. Khi Ali Agca bắn thì Đức Thánh Cha ngã xuống ngay. Đức Thánh Cha không
nói lời than van nào hết. Đức Thánh Cha chỉ kêu xin Đức Mẹ trợ giúp. Đức Thánh Cha
không la lên, ngài chỉ xin trợ giúp. Họ mang Đức Thánh Cha vào vòng cung dưới Tháp
Chuông rồi đặt ngài vào xe cứu thương và chở thẳng đến bệnh viện toàn khoa Gemelli.
Tôi ở lại ngày đêm nơi căn phòng bên cạnh phòng của Đức Thánh Cha và cầu nguyện cho
Đức Thánh Cha. Khi tôi hỏi thăm tin tức thì các bác sĩ và Cha bí thư Stanislao cho
biết Đức Thánh Cha bình tĩnh và phó thác. Rồi giáo sư Francesco Crucitti - vị bác
sĩ giải phẫu cho Đức Thánh Cha - quả quyết với tôi: ”Đúng thật Đức Thánh Cha chỉ được
cứu sống nhờ Phép Lạ!” Rồi bác sĩ vừa đưa cho tôi xem phim chụp vừa giải thích: ”Giống
y như thể đang đi, viên đạn bỗng nhiên chuyển hướng, làm như thể viên đạn gặp một
vật cản bằng thép. Thật không thể tưởng tượng được: chính nhờ thế mà viên đạn chỉ
chạm đến phần mềm của cơ thể chứ không làm gãy mảnh xương nào cả! Làm sao giải thích
được sự kiện này, hẳn chỉ duy nhất Đức Mẹ MARIA biết!”
Xin nhắc lại ở đây
là vào một dịp khác bác sĩ Francesco Crucitti tiết lộ: ”Khi nhìn thấy Đức Thánh Cha
Gioan Phaolo II, mình đầy máu, hai tay giang ra bất động để được chuyền máu, tôi có
cảm tưởng như đang chiêm ngắm hình ảnh Đức Chúa GIÊSU bị đóng đinh trên Thánh Giá.
Vâng! Đúng thế, tôi tin rằng mình đã nhìn thấy Đức Chúa KITÔ Chịu Khổ Nạn!”
Hỏi: Xin ông cho biết, sau vụ ám sát ngày thứ tư 13 tháng 5 năm 1981, Đức
Thánh Cha Gioan Phaolo II có lo sợ một vụ ám sát khác nữa không?
Đáp:
Chúng tôi thực hiện 104 chuyến công du hải ngoại. Nếu phải làm cuộc kiểm chứng về
tất cả đe dọa ám sát mà chúng tôi nhận được thì đáng lý Đức Thánh Cha đã chết đến
104 lần! Vậy tôi xin lập lại: Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II không sợ hãi bất cứ điều
gì. Tôi không bao giờ trông thấy Đức Thánh Cha âu lo hốt hoảng. Lời ngài khuyên ”Anh
Chị Em đừng sợ” cũng là câu châm ngôn sống của ngài.
Dĩ nhiên Đức Thánh Cha
có thể chọn lựa hình thức viếng thăm mục vụ bằng cách cứ ngồi yên nơi ngai tòa Thánh
Phêrô ở thủ đô Roma và gởi đi viếng thăm nhân dân các nước ở các Giáo Hội địa phương
các Vị Sứ Thần Tòa Thánh hoặc các vị thừa sai. Sau đó các vị này sẽ tường trình chi
tiết các chuyến viếng thăm. Nhưng Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II không làm thế. Khi
nói về các vấn đề, ngài muốn đích thân hiểu biết các vấn đề ấy. Chính Đức Thánh Cha
khởi xướng không biết bao nhiêu là hành động bất ngờ. Chẳng hạn đáng lý ngài phải
bước đi 100 thước đường thẳng, nhưng chỉ sau 10 thước, ngài có thể bất ngờ rẽ sang
trái hoặc chuyển sang phải! Hỏi: Xin ông Arturo Mari kể thêm cho
biết Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II không sợ bất cứ điều
gì.
Đáp: Xin bạn luôn ghi nhớ rằng, chẳng những Đức Thánh Cha sẵn
sàng đối phó với các cá nhân, bất luận người đó là ai, bởi vì ngài cảm thấy mình được
bảo vệ bởi các hiệp ước quốc tế, bởi quyền bất khả xâm phạm mà mỗi vị quốc trưởng
được hưởng. Chẳng những thế, ngài còn sẵn sàng đối phó với hết mọi tổ chức, đặc biệt
những tổ chức đi ra ngoài các luật lệ của một thế giới văn minh.
Một trong
những thí dụ điển hình mạnh nhất là bài diễn văn Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II nói
với nhóm bất lương mafia đảo Sicilia (Nam Ý) tại chính nơi sào huyệt của họ ở Valle
dei Templi gần Agrigento. Đức Thánh Cha nói lớn: ”Các bạn hãy ăn năn thống hối! Bởi
vì các bạn sẽ phải trả lẽ trước mặt THIÊN CHÚA!”
Một lần khác, trong chuyến
viếng thăm mục vụ tại Perù vào năm 1985, khi đang đi, Đức Thánh Cha gặp một nhóm lính
võ trang của quân đội chính phủ đang tuần tiễu. Họ tỏ ra thật ưu tư đến độ gần như
hung-hăng. Đức Thánh Cha thăm hỏi lý do nào khiến họ phải dùng đến những biện pháp
nghiêm ngặt đến như thế. Họ giải thích cho Đức Thánh Cha biết trong rừng đang có các
nhóm kháng chiến thuộc phong trào Con Đường Sáng, tức là các nhóm khủng bố Perù đang
quấy nhiễu phá rối vào bất cứ lúc nào. Nghe vậy, Đức Thánh Cha không hề tỏ ra sợ hãi,
cũng không tìm cách trốn thoát. Trái lại, Đức Thánh Cha lấy một cái ghế bước lên một
cái bàn rồi Đức Thánh Cha thẳng thắn trách cứ họ về cách thức họ cư xử quá bạo tàn.
Thật là giây phút đáng lo âu, vào chính lúc ấy!
Trước đó vào năm 1983 trong
chuyến viếng thăm mục vụ Nicaragua, Đức Thánh Cha cũng dùng lời lẽ mạnh bạo y như
thế. Hồi ấy Nicaragua sống dưới chế độ độc tài của chính phủ sandinista. Trong Thánh
Lễ Đức Thánh Cha cử hành tại Managua, ngồi nơi ba hàng ghế đầu có đủ mặt quan chức
chính phủ sandinista đang sôi-sục hùng-hổ, sẵn sàng lên tiếng phản đối Đức Thánh Cha
Gioan Phaolo II vào bất cứ lúc nào.
Nhưng Đức Thánh Cha không hề tỏ ra lo
sợ. Bởi vì vượt qua ba hàng ghế đầu Đức Thánh Cha trông thấy khuôn mặt của toàn đám
dân lành, đang ngước mắt nhìn Đức Thánh Cha với trọn lòng yêu mến và hy vọng. Họ mong
chờ nơi Đức Thánh Cha lời an ủi khuyến khích .. Đang lúc giảng trong Thánh Lễ, Đức
Thánh Cha đột nhiên cầm lấy Cây Thánh Giá, giơ cao lên và nói lớn: ”Đức Chúa KITÔ
sẽ chiến thắng!” Đừng quên rằng, ngay chính lúc ấy Đức Thánh Cha ý thức rõ mình có
thể gặp hiểm nguy. Nhưng Đức Thánh Cha không sợ! Đức Thánh Cha muốn can đảm làm chứng
cho sự thật của Đức Tin Công Giáo. Cùng lúc, Đức Thánh Cha muốn trao ban sự nâng đỡ
cho đoàn chiên khiêm tốn bé nhỏ đang đứng trước mặt Đức Thánh Cha.
...
”Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen.
Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm, kính mừng Người,
gảy muôn cung đàn sắt. Nào dâng Chúa một khúc tân ca, rập tiếng hoan
hô, nhã nhạc vang lừng. Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm
đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh
chính trực, tình thương Chúa chan hòa mặt đất ..
Chúa đảo lộn chương trình muôn nước, Người
phá tan ý định chư dân. Chương trình Chúa ngàn năm bền
vững, ý định của lòng Người vạn kiếp trường
tồn. Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm CHÚA TỂ. Hạnh phúc
thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp” (Thánh Vịnh 33,1-5/10-12).
(Arturo Mari, ”Arrivederci in Paradiso”, Colloquio di Jaroslaw Mikolajewski con Arturo
Mari, Aprile 2006, Polonia, trang 63+108+101+123)