Một số nhận định của ông René Girard, chuyên viên nhân chủng học người Pháp, về thông
điệp ”Spe salvi” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Ngày 30-11-2007 Đức Thánh
Cha Biển Đức XVI đã công bố thông điệp ”Spe salvi - Trong hy vọng chúng ta đã được
cứu độ”. Đây là thông điệp thứ hai của Đức Thánh Cha. Trong thông điệp thứ nhất ”Thiên
Chúa là Tình Yêu” Đức Thánh Cha khẳng định rằng mục đích chính yếu của Kitô giáo là
giúp con người đón nhận tình yêu của Thiên Chúa và chia sẻ Tình Yêu ấy, bắt đầu bằng
Tình Yêu ở hình thức quyết liệt nhất là sự hy sinh của Chúa Kitô.
Trong thông
điệp thứ hai về hy vọng, Đức Thánh Cha xác quyết rằng niềm tin nơi Chúa Kitô mang
lại một niềm hy vọng ơn cứu độ đời đời, niềm hy vọng này có nền tảng vững chắc và
nâng đỡ chúng ta qua những thăng trầm của thế giới này.
Khi giới thiệu Chúa
Giêsu Kitô như nguồn mạch Tình Yêu và Hy Vọng cho con người thời nay, Đức Thánh Cha
cố gắng giải thích xác tín của Giáo Hội một cách có sức thuyết phục, nhưng không có
tính cách dùng uy quyền. Trong thông điệp Đức Thánh Cha phê bình nền văn hóa hiện
đại, cảnh giác chống lại thái độ tôn sùng khoa học kỹ thuật, sự ích kỷ cá nhân và
ích kỷ kinh tế, cũng như những thái qúa có tính chất ý thức hệ và những quan niệm
sai lầm về sự tự do. Nhưng sự phê bình của ngài dựa trên một phân tích có lý luận,
phản ánh xác tín của Đức Thánh Cha, theo đó Kitô giáo không phải chỉ là một sự tập
luyện đức tin, nhưng có ý nghĩa đối với con người thời nay.
Trong phần đầu
của thông điệp ”Spe salvi” Đức Thánh Cha trình bầy niềm hy vọng Kitô đựa trên đức
tin theo giáo huấn của Kinh Thánh Tân Ước và trong Giáo Hội sơ khai. Tiếp đến ngài
giải thích thế nào là đời sống vĩnh cửu, rồi ngài bác bỏ quan niệm cho rằng niềm hy
vọng Kitô có tính chất cá nhân chủ nghĩa. Đức Thánh Cha cũng trình bầy bản chất đích
thực của niềm hy vọng Kitô.
Trong phần thứ hai của thông điệp, Đức Thánh Cha
bàn về những ”nơi để học và thực hành hy vọng”, trước tiên là việc cầu nguyện, tiếp
đến là hành động và chịu đau khổ, và thứ ba là cuộc phán xét chung.
Từ khi
thông điệp được công bố đến nay đã có nhiều phản ứng từ nhiều giới khác nhau. Lần
trước chúng tôi đã gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Linh Mục Pierangelo Sequeri,
thần học gia giáo sư phân khoa thần học Milano bắc Italia. Hôm nay xin gửi đến qúy
vị và các bạn một số nhận định của giáo sư René Girard, chuyên viên nhân chủng học
người Pháp, về thông điệp ”Spe salvi” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI.
Hỏi:
Thưa giáo sư, là tín hữu và là người có đôi mắt
không mệt mỏi khám phá lãnh vực thánh thiêng, đâu là điểm đã
đánh động giáo sư nhất trong thông điệp
”Spe salvi” của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI?
Đáp: Điều gây ấn tượng mạnh nơi tôi đó là Đức Thánh Cha nối liền lòng tin và niềm
hy vọng, khi người nhấn mạnh rằng chúng bị lẫn lộn trong dòng lịch sử của Kitô giáo.
Xem ra Đức Thánh Cha phiền trách thế giới có ít lòng hy vọng hơn là ít lòng tin, vì
niềm hy vọng có vai trò chính yếu trong lòng tin.
Một lần nữa người ta nhận
thấy trong thông điệp này Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI muốn nhấn mạnh trên các sự thật
nền tảng của Kitô giáo, thường bị tín hữu ngày nay lãng quên. Đức Thánh Cha nói với
chúng ta rằng niềm hy vọng Kitô không có tính cách cá nhân chủ nghĩa như thời đại
ngày nay tìm làm cho chúng ta tin như thế. Đồng thời đương đầu với thế giới xã hội
trong nhãn quan của các ý thức hệ tân tiến là giản lược và lạc hướng.
Hỏi:
Giáo sư đề cập đến thông điệp xã hội trong nghĩa
nào?
Đáp: Trong nghĩa trở về với nền tảng xã hội của Kitô giáo.
Kitô giáo trong tổng thể của nó quan trọng hơn là từng người trong chúng ta. Và nó
đang bị đe dọa bởi một ý niệm sai lầm về tiến bộ. Đây là một sự đe dọa trực tiếp đè
nặng trên thế giới chúng ta ngày nay. Xem ra thông điệp của Đức Thánh Cha muốn nói
tới các vấn đề nghiêm trọng của việc chạy đua vũ trang, của môi sinh, của việc tiêu
thụ dầu hỏa.
Hỏi: Thưa giáo sư trong phần đầu
của thông điệp Đức Thánh Cha nhắc lại biến cố niềm hy
vọng Kitô đến trong một thế giới ngoại giáo không có viễn tượng
tương lai, có đúng thế không?
Đáp: Đức Thánh Cha nói với
chúng ta một cách rất rõ ràng rằng các thần linh của thế giới cổ xưa như các thần
linh Roma không thể đem lại hy vọng cho con người. Nhưng Thiên Chúa của người Kitô
thì hoàn toàn khác hẳn. Tình yêu thương và sự chú ý mà Thiên Chúa dành để cho con
người là liên tục và sâu thẳm, sâu thẳm hơn là quan niệm của chính chúng ta về bản
chất nhân loại của mình.
Hỏi: Trong thông điệp Đức
Thánh Cha cũng nhắc tới các trình bầy đầu tiên liên quan tới
Chúa Giêsu như là một triết gia, tại sao vậy?
Đáp: Đây là
một cái nhìn không chú ý đủ tới cuộc Khổ Nạn, là dữ kiện nòng cốt của Kitô giáo. Biến
cố này mới mẻ tới độ thiếu cả từ vựng để nói về nó. Nhưng ngày nay chúng ta có thể
tự hỏi mình có còn đang trên đường hướng tới các giải thích sâu xa hơn về cuộc Khổ
Nạn hay không. Tôi thấy hình như thông điệp của Đức Thánh Cha mời gọi liên tục suy
tư về sự kiện Thiên Chúa gần gũi với chúng ta hơn, vì có sự hiện diện này của khổ
đau, cần thiết đến như thế trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người.
Hỏi: Một sự khổ đau đã được Đức Thánh Cha
nhắc tới qua các gương mặt thánh thiện của các nhân vật khác
nhau, có đúng thế không thưa giáo sư?
Đáp: Vâng đúng
thế. Các mẫu gương thánh thiện được nhắc tới trong thông điệp là những gương mặt tân
thời và đến từ các quốc gia không tây phương, từ các quốc gia đau khổ rất nhiều và
đã không có một truyền thống Kitô. Như thế thông điệp nhấn mạnh trên tính cách đại
đồng của Kitô giáo, và trên sự kiện nó sống động cả tại những nơi mà người tây âu
không ngó ngàng gì tới. Trong các vùng đất đó Kitô giáo lớn lên và đạt các kiểu diễn
tả trong một số khía cạnh nào đó mạnh mẽ hơn bên Tây Phương là thế giới căng phồng
khoa học và các khả năng sản xuất.
Hỏi: Thưa giáo sư, thông điệp
của Đức Thánh Cha trích lại một tư tưởng của triết gia
Kant liên quan tới ”cái tận cùng của mọi sự”, được chỉ cho thấy
như là một hòn đá mốc của các nghi hoặc đối với
sự tiến bộ. Giáo sư có ngạc nhiên đối với lời trích này
hay không?
Đáp: Đoạn này của thông điệp rất là hay, vì nó nêu bật
sự kiện triết lý, khi được nhìn từ gần, thì không qúa đơn sơ trong quan niệm về tính
cách tân thời, về khoa học và về sự tiến bộ như người ta thường nói. Như thế cả trong
triết học lương tâm của chúng ta cũng có thể tìm thấy các điểm giúp thức tỉnh đối
với các nguy cơ, mà thời đại ngày nay đang trải qua.
Hỏi: Nhưng
mà triết lý như triết lý của ông Marx chẳng hạn, cũng có thể
trở thành nền tảng của các ý thức hệ thê thảm chứ, thưa giáo sư?
Đáp: Thông điệp nhắc cho chúng ta biết cái tật xấu chính của các ảo tưởng thời
đại. Chúng tin rằng chúng có thể bổ khuyết cho nhân loại một cách vĩnh viễn, nhưng
mỗi lần thực hiện ảo tưởng là mỗi lần nó lại để cho con người bị chưng hửng.
Ngoài sự kiện khiến cho tình hình tồi tệ thêm ra, ngày nay loại ảo tưởng này bắt đầu
xem ra lỗi thời một cách kinh khủng trong quan niệm hoàn toàn duy vật của nó, và nó
không có viễn tượng tinh thần nào về niềm hạnh phúc của con người. Bên cạnh tất cả
những điều đó Kitô giáo xuất hiện như là một sự rộng mở cho sự vô tận không thể lấp
đầy được.
Hỏi: Và trong sự rộng mở vô tận đó Kitô hữu không
thể quên Ngày phán xét chung?
Đáp: Phần cuối của thông điệp nhắc
cho chúng ta biết rằng thế giới, trong đó Kitô giáo đã quan niệm về số phận của con
người, ngày nay vẫn còn hoàn toàn có giá trị. Ở đây có sự trở về với truyền thống
của Giáo Hội, và nhắc nhở đào sâu Kitô giáo ngày nay qua các nguồn tài liệu chính
và qua các nhân đức đối thần, trái với các lòng tin bé nhỏ và các hy vọng vụn vặt
thường ngày của chúng ta. Có những chỗ xem ra Đức Thánh Cha muốn chỉ cho thấy đối
với thế giới tuyệt vọng này trở về với Kitô giáo thật không khó khăn gì.
Việc
thông điệp nhấn mạnh trên sự kiện thế giới không thể tìm ra các cơ cấu có khả năng
duy trì hòa bình một cách thường hằng, là điều rất ý nghĩa. Tự mình con người không
thể tự giải thoát khỏi các nguyên do tự hủy của nó.
Hỏi: Thưa giáo
sư, có phải niềm hy vọng ở đây cũng là niềm hy vọng của việc
hiệp nhất các tín hữu Kitô hay không?
Đáp: Vâng, việc tìm về sự
hiệp nhất hiện diện giữa các hàng của thông điệp như là một sứ mệnh nòng cốt. Việc
lo lắng cho sự hiệp nhất có tính cách thường hằng, bởi vì người ta sẽ nhận ra các
Kitô hữu trong sự hiệp nhất ấy. Ngày nay người ta không nhận ra kitô hữu chúng ta
nữa, vì chúng ta bị chia rẽ trầm trọng.