Theo như tục lệ, lễ nghi tấn phong hồng y gồm hai chặng được
phân phối vào hai ngày: chặng thứ nhất là trao mũ đỏ và hiệu toà trong
khung cảnh của buổi cử hành Lời Chúa; ngày hôm sau diễn ra chặng thứ hai với việc
trao nhẫn trong thánh lễ đồng tế. Năm nay vì lý do thời
tiết xấu, cả hai chặng đều diễn ra ở trong đền thờ thánh
Phêrô, mặc dù con số người tham dự rất đông (ước
tính khoảng 20 ngàn người). Lúc 10 giờ rưỡi sáng
hôm qua, đức thánh cha đã chủ sự thánh lễ đồng
tế cùng với 23 tân hồng y, và sau lời nguyện hiệp lễ, ngài đã ra trước
tiền đường để chào mừng các tín hữu, đọc
kinh Truyền tin và ban phép lành kết thúc. Chúng tôi xin dành phần lớn của buổi
tường thuật hôm nay cho bài giảng hướng đến cộng
đoàn phụng vụ kèm theo đôi lời nhắn nhủ hưóng đến
các tân hồng y. Dựa theo bài đọc Sách thánh trong thánh lễ, đức
Bênêđictô XVI trình bày ba bức tranh để suy niệm về Chúa Kitô
Vua: ở chính giữa là Chúa Giêsu trên thập giá, dựa theo bài trình thuật của Luca;
một bên là cuộc xức dầu tấn phong vua Đavit; bên kia là bài thánh thi ca tụng
đức Kitô trích từ thư gửi tín đoàn Côlôsê. Cả
ba đều trình bày Đức Kitô là Chủ tể của chúng ta, và tất cả
chúng ta đều là anh em với nhau. Bức tranh chính giữa được giải
thích như sau:
Chúng ta cần khởi đầu từ biến cố trung tâm là Thập giá.
Nơi đây, đức Kitô bày tỏ cách độc đáo vương quyền của mình. Trên núi Calvariô, hai
thái độ đối kháng với nhau. Một vài nhà lãnh đạo đứng gần thập giá, và kể cả một trong
hai người tử tội, đã buông ra những lời khinh bỉ chế nhạo kẻ bị treo: “Nếu ông là
Vua Mêsia, thì hãy tự cứu lấy mình đi, hãy xuống khỏi khổ giá đi”. Tuy nhiên, đức
Giêsu đã bảy tỏ vinh quang của mình bằng cách ở lại trên thập giá, như Chiên hiến
tế. Cùng đứng về phía với Người là tên trộm thứ hai, khi ông ta nhìn nhận vương quyền
của Người qua lời khẩn nài: “Chừng nào Ngài vào vương quốc, xin hãy nhớ đến tôi” (Lc
23,42). Thánh Cyrilô Alexandria đã chú giải thế này: “Anh thấy Người bị đóng đinh
và anh xưng Người là vua. Anh tin rằng kẻ đang chịu sỉ nhục và đau khổ sẽ bước vào
vinh quang Thiên Chúa” (Comm. a Luca, hom.153). Theo thánh sử Gioan, vinh quang Thiên
Chúa đã được tỏ lộ rồi, tuy rằng nó bị che khuất bởi khổ hình thập giá. Kể cả đối
với thánh sử Luca, thực tại tương lai đã thành hiện thực khi đức Giêsu hứa với người
trộm lành: “Hôm nay anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43). Thánh Ambrôsiô nhận
xét như sau: “Anh ta thỉnh cầu Người hãy nhớ đến mình khi vào vương quốc, nhưng Chúa
đã đáp lại: Quả thật, tôi nói cho anh, ngày hôm nay anh sẻ ở với tôi trên Thiên đàng.
Sự sống hệ tại ở với Chúa Kitô, bởi vì Chúa Kitô ở đâu thì Vương quốc của Người ở
đó” (In Luc 10,21). Như thế bản án đóng trên đỉnh cây thập giá “Đây là vua dân Do
thái” trở thành tuyên ngôn của chân lý. Thánh Ambrosiô viết tiếp: “Bản án được viết
trên thập giá là đích đáng, bởi vì tuy Chúa Giêsu bị treo trên thập giá nhưng từ trên
đỉnh thập giá đã chiếu rạng vinh quang vương giả” (ibid 10,113).
Đức Thánh
Cha bình luận thêm rằng vinh quang Thiên Chúa được tỏ rạng trên thập giá bởi vì nơi
đó Thiên Chúa là tình thương đã mặc khải tình thương tột độ đối với nhân loại. Hướng
về các tân hồng ý, Người nhắn nhủ: “Trên chiếc nhẫn sắp sửa được trao cho các tân
hồng y, có khắc thập giá. Đây là một lời mời gọi các hồng y hãy nhớ rằng mình phục
vụ Vị Vua nào, Người đã ngự trên ngai nào, và Người đã trung tín cho đến chết như
thế nào để thắng tội lỗi và sự chết nhờ sức mạnh của lòng lân tuất của Thiên Chúa.
Hội thánh, hiền thê của Chúa Kitô, trao cho các hồng y chiếc nhẫn này như là kỷ niệm
của hôn phu của mình, đấng đã yêu thương và hiến mạng sống cho nàng. Khi đeo chiếc
nhẫn này, các hồng y được nhắc nhở hãy hiến mạng sống mình cho Hội thánh”.
Bước
sang bài đọc thứ nhất, kể lại cảnh các bô lão Israel đến ký kết một giao ước với vua
Đavit, thể hứa sẽ đoàn kết với ông, đức thánh cha áp dụng vào Chúa Kitô, và so sánh
với các hồng y, những bô lão của Giáo hội. Các ngài cũng nói được với Chúa Giêsu rằng:
“Chúng tôi cùng xưong cùng thịt với Ngài. Chúng tôi thuộc trọn về Ngài và ước muốn
liên kết nên một với Ngài. Ngài là kẻ chản dắt dân Chúa, Ngài là thủ lãnh của Giáo
hội. Trong Thánh lễ hôm nay, chúng tôi muốn lặp lại giao ước với Ngài, tình thân hữu
với Ngài, bởi vì duy chỉ mối tình thân thiện này mới đem lại ý nghĩa cho các chức
vụ và trách nhiệm lãnh nhận”.
Bức tranh thứ ba dựa trên lá thư thánh Phaolô
gửi các tín hữu Colosê. Bài thánh thi mở đầu bằng lời tạ ơn hoan hỉ, bởi vì chúng
ta đã được đem vào vương quốc của Chúa Kitô, được chia sẻ gia nghiệp các thánh, nhờ
công trình cứu chuộc của Con Thiên Chúa. Điều này đưa thánh Phaolô đến cuộc chiêm
ngắm vai trò của Chúa Kitô trong cuộc tạo dựng vũ trụ và công cuộc hoà giải. Đối với
công trình tạo dựng vũ trụ, Đức Kitô là chủ tể muôn loại, bởi vì muôn vật đã được
tạo dựng nhờ Người và hướng đến Người … muôn vật tồn tại trong Người. Công trình hoà
giải dựa trên mầu nhiệm Vượt qua: nhờ cái chết của Người trên thập giá, Thiên Chúa
đã hoà giải vạn vật trên trời dưới đất; nhờ cuộc phục sinh của Người, Thiên Chúa đã
đặt Người làm nguyên uỷ của tạo dựng mới, đứng đầu thân thể huyền nhiệm là Hội thánh.
Bản
văn của thánh Phaolô đã lồng thập giá trong toàn bộ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa,
nơi mà vương quyền của Chúa Giêsu lan rộng tới khắp vũ trụ. Hội thánh ngỡ ngàng khi
nhìn ngắm quang cảnh này, khi khám phá vai trò của mình. Mầu nhiệm của Chúa Kitô được
uỷ thác cho Hội thánh. Hội thánh đón nhận sứ mạng này với lòng tri ân khiêm tốn, bởi
vì đuợc vinh dự cộng tác vào việc phục vụ vị Chủ tể vạn vật, bằng cách làm chứng tá
cho Người, để mang lại cho nhân loại sứ điệp hoà bình. Trong sứ mạng đó, các hồng
y giữ một trọng trách đặc biệt, tìm cách loan báo cho toàn thế giới chân lý của Chúa
Kitô, niềm hy vọng cho mỗi người và cho toàn thể gia đình nhân loại. Việc phụng sự
vương quyền của Chúa Kitô cũng mang theo việc phục vụ cho sự hợp nhất và hoà bình
trên thế giới.
Sau bài giảng, các tân hồng y đã lên lãnh chiếc nhẫn từ đức
thánh cha với công thức như sau: “Xin ngài hãy nhận lấy chiếc nhẫn từ tay của Phêrô,
và xin Ngài hãy biết rằng nhờ lòng yêu mến Thủ lãnh các tông đồ và lòng yêu mến của
Ngài với Giáo hội được thêm vững”.
Các ý chỉ lời nguyện tín hữu được cất lên
bằng tiếng Pháp, Ả-rap, Đức, Hindi (Ấn), Ba-lan, Suahili (Phi châu), Bồ đào nha.
Thánh
lễ kết thúc lúc 12 giờ 15. Như đã nói trên, sau lời nguyện hiệp lễ, đức thánh cha
đã rời bàn thờ chính, đi ra trước tiền đường thánh Phêrô để chào thăm các tín hữu
đứng ngoài quảng trường và theo dõi các lễ nghi qua màn hình. Bên cạnh những lời chúc
bằng tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây-ban-nha, Bồ-đào nha, Ba-lan, ngài còn xin thêm lời
cầu nguyện cho hội nghị quốc tế sẽ diễn ra tại Annapolis (Hoa kỳ) vào thứ ba tuần
này, để bàn về hoà bình bên Thánh địa, nơi đã diễn ra bao nhiêu cuộc giao tranh, gây
ra nhiều cảnh tang thương từ 60 năm qua. Các giám mục Hoa kỳ đã chỉ định chúa nhựt
hôm qua làm ngày cầu nguyện xin Chúa ban hoà bình cho vùng đất đó, và tất cả mọi tín
hữu được mời gọi hãy chung lời hiệp ý. Buổi lễ hôm qua đã kết thức với kinh Truyền
tin và phép lành Toà thánh.