Thánh nữ Gemma Galgani (1878-1903) chào đời và qua đời tại Borgo Nuovo thuộc
Lucca (Bắc Ý). 25 năm ngắn ngủi tại thế đủ để thanh luyện cuộc đời thánh thiện của
một trinh nữ.
Năm 1940 - gần 40 năm sau khi qua đời - Gemma Galgani được Đức
Giáo Hoàng Pio XII (1939-1958) tôn phong hiển thánh. Cuộc đời thánh nữ là chuỗi dài
hiện tượng siêu nhiên và ơn thánh khác thường. Những năm cuối cùng thánh nữ được hồng
phúc sống cuộc khổ nạn của Đức Chúa GIÊSU KITÔ và được in Năm Dấu Thánh ngày 8-6-1899.
Để chuẩn bị thông phần cuộc khổ nạn với Đức Chúa GIÊSU, cuộc đời thơ ấu của Gemma
Galgani sớm nếm mùi mồ côi tang tóc. Năm 1886 - Gemma lên 8 tuổi - thân mẫu đột ngột
qua đời. 8 năm sau, đến phiên anh trai Gino từ trần, và năm 1897, thân phụ Enrico
ra đi về thế giới bên kia. Thế là Gemma mồ côi cả Mẹ lẫn Cha và sống trong túng thiếu
cùng khốn. Nhưng tất cả đau thương thử thách trở thành phương tiện thanh tẩy cuộc
đời trinh nữ Gemma. Đặc biệt Gemma càng sống mối giây hiệp thông vô hình với người
thân quá cố.
Vào những ngày lễ lớn, Gemma dẫn em gái Giulia đến nghĩa trang
viếng mộ Song Thân và anh trai Gino. Hai chị em ở lại nghĩa trang lâu giờ cầu nguyện
nơi mộ Cha Mẹ. Giây phút trải qua nơi nghĩa trang là giây phút nghỉ ngơi và an ủi
đối với Gemma. Cô cảm thấy như nhận được vuốt ve trìu mến của Cha Mẹ. Đối lại, Gemma
tha thiết khẩn cầu THIÊN CHÚA ban ơn an nghỉ ngàn đời cho Cha Mẹ.
Dưới bóng
mát những cây trắc bá trồng trong nghĩa trang, Gemma cầu nguyện và suy tư về cái mỏng
dòn chóng qua của cuộc sống con người. Chỉ trên Thiên Đàng con người mới sống trọn
vẹn và lâu dài muôn đời muôn kiếp.
Khi chuyển đến sống với Dì ở cách xa Borgo
Nuovo, Gemma không thể thường xuyên đến nghĩa trang viếng mộ Cha Mẹ. Thay vào đó,
Gemma đến nhà thờ cầu nguyện cho Linh Hồn Cha Mẹ và người thân qua cố. Tâm tình quý
mến yêu thương người quá cố là sức mạnh giúp Gemma thắng vượt mọi khó khăn trong cuộc
đời và sẵn sàng dâng mình làm hy lễ cho THIÊN CHÚA.
... Nhân vật thứ hai
có lòng sùng kính người quá cố là ông Giovanni Pascoli (1855-1912) thi sĩ nổi
tiếng người Ý. Giovanni là con thứ tư trong gia đình có 10 người sống tại San Mauro,
thuộc vùng Romagna (Bắc Ý).
Người đương thời âu yếm tặng ông danh hiệu ”thi
sĩ của lòng nhân lành”. Ông không biểu lộ ra bên ngoài Đức Tin Công Giáo nhưng có
tâm hồn tôn giáo sâu xa và luôn đề cao nền luân lý Kitô cũng như nhân đức trong sạch.
Tuổi thơ của Giovanni sớm nếm mùi cay đắng. Năm 1867 - Giovanni lên 12 tuổi - thân
phụ bị giết chết. Một năm sau, thân mẫu lìa trần vì quá buồn sầu thương nhớ chồng.
Chẳng bao lâu sau đó, hai anh của Giovanni cũng theo Cha Mẹ đi về thế giới bên kia.
Trước đó không lâu, hai em gái cũng vĩnh biệt cõi trần khi tuổi còn thơ. Từ đó, nghĩa
trang trở thành nơi chốn mà Giovanni thường một mình đến viếng mộ Cha Mẹ và anh chị
em quá cố.
Những cái tang đau thương dồn dập ghi đậm nét sầu trong cuộc đời
thanh xuân của Giovanni Pascoli. Chàng nhìn đời với đôi kính màu đen. Chàng nghi ngờ
mọi người và không tin tưởng nơi THIÊN CHÚA. May mắn thay thời gian khủng hoảng không
kéo dài lâu. Chàng sớm thức tỉnh và bắt đầu nhạy cảm trước tất cả những gì là Chân-Thiện-Mỹ.
Chàng trở về với Đức Tin Công Giáo, đi tham dự Thánh Lễ thường xuyên và sốt sắng rước
Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU.
Thi sĩ Giovanni Pascoli từng sáng tác thánh thi
ca tụng Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA. Bài thơ trở thành nổi tiếng và hay nhất của
thi sĩ.
Một ngày, Linh Mục Germano Tomassetti gửi tặng thi sĩ Pascoli bức
ảnh Đức Chúa GIÊSU chịu đóng đanh trên Thánh Giá. Thi sĩ vui mừng tiếp nhận như món
quà quý giá và viết cho Cha Tomassetti:
- Con đã nhận được tấm ảnh tuyệt đẹp
Cha gửi cho con. Tấm ảnh Đức Chúa KITÔ biến hình. Nét dịu hiền của khuôn mặt chí thánh
gợi lên cho con không biết bao nhiêu tâm tình tri ân, trìu mến và an ủi!
Điều
đáng nói trong cuộc đời thi sĩ Giovanni Pascoli là lòng tôn kính người quá cố. Ông
thường nhắc lại kỷ niệm êm ái thời thơ ấu. Mẹ dẫn bé Giovanni theo bà đến nhà thờ
thánh Mauro để lần hạt Mân Côi cầu cho người qua đời. Sau này ông xây một nhà nguyện
dâng kính Đức Mẹ MARIA và thường đến đó để cầu nguyện cho Cha Mẹ, anh chị em và người
thân đã qua đời. Một bạn thân quả quyết thi sĩ Pascali dành thời giờ để đọc kinh cầu
nguyện cho người quá cố. Ông cũng xin dâng Thánh Lễ cầu cho người qua đời. Ngoài ra,
ông năng thăm viếng nghĩa trang thành phố và yêu thích chiêm ngắm những cây trắc bá
trồng rải rác trong nghĩa trang.
Chắc chắn Linh Hồn người thân quá cố khẩn
cầu trước tòa Chúa nên ông sống những ngày cuối đời trong an bình và ánh sáng của
THIÊN CHÚA.
Vì có lòng đặc biệt tôn kính người qua cố, thi sĩ Giovanni Pascoli
chuyển dịch bài thơ của thi sĩ Anh ”Chúng cháu 7 anh em”. Nguồn gốc bài thơ
như sau.
Một bé gái 8 tuổi trên đường về nhà. Thi sĩ trông thấy cô bé liền
gợi chuyện:
- Bé nói cho Bác biết bé có tất cả bao nhiêu anh chị em?
Cô bé trả lời:
- Chúng cháu 7 người. Hai anh đi biển. Hai anh làm việc ở tỉnh.
Hai anh ở nghĩa trang.
Rồi cô bé nói tiếp:
- Trong căn nhà kia cháu
sống với Mẹ và hai anh cháu ở gần đó.
Thi sĩ vặn lại:
- Như vậy đâu
phải là 7 mà là 5, bởi vì 2 người kia đã chết!
Cô bé không chịu thua, nhất
định cãi lại:
- Chúng cháu 7 người mà! Hai anh ở nghĩa trang chôn gần nhau
và nghỉ yên trong cùng phần mộ.
Nói rồi, cô bé liến thoắng kể thêm rằng cô
bé thường xuyên ra nghĩa trang thăm hai anh vì nghĩa trang ở gần nhà:
- Vào
những buổi chiều êm ả, khi khí trời mát dịu, cháu mang thức ăn ra nghĩa trang, rồi
cùng với hai anh, cháu dùng bữa chiều ở đó. Chúng cháu 7 anh em!
... ”Trước
khi xét đoán, hãy tự kiểm điểm, thì trong giờ Chúa đến
viếng thăm, con sẽ được khoan hồng. Để khỏi
mang bệnh, con hãy hạ mình xuống, trong lúc ốm đau vì tội lỗi, con hãy
tỏ lòng ăn năn. Hãy giữ lời khấn hứa đúng thời,
đừng chậm trễ, chớ đợi đến giờ lâm chung mới
ăn ở liêm chính .. Hãy nhớ đến cơn thịnh nộ trong
những ngày cuối cùng, đến giờ báo oán, khi Người ngoảnh
mặt đi. Hãy nhớ đến thời đói kém, khi con dư dật;
khi giàu có, hãy nhớ đến cơn nghèo khổ và nỗi khốn cùng.
Từ sáng sớm tới chiều tà, thời gian thay đổi; trước mặt
THIÊN CHÚA, tất cả đều mau qua. Người khôn ngoan thì thận
trọng trong mọi sự, và giữ mình khỏi lầm lỡ trong ngày tội lỗi hoành hành” (Sách
Huấn Ca 18,20-27).
(Evaristo Cardarelli, ”Mese di Novembre”, Edizioni Cantagalli,
Siena 1992, trang 41+59+31)