Một số nhận định của Đức Cha Bernardo Gremoli, Giảm Quản Tông Tòa bán đảo A rập về
tình hình các Giáo Hội Kitô tại đây
Chiều ngày 23-10-2007, Trung Tâm Văn Hóa
Milano bắc Italia, đã tổ chức buổi lễ giới thiệu cuốn sách tựa đề ”Các anh chị em
bị lãng quên. Hành trình giữa các Kitô hữu vùng Trung Đông”. Trong số các người tham
dự và phát biểu có cha Pierbattista Pizzaballa, Bề Trên Tỉnh Dòng Anh Em Hèn Mọn Thánh
Địa và cha Coordina Roberto Fontolan, Giám đốc nguyệt san ”Thánh Địa”, tác giả cuốn
sách.
Công tác tông đồ mục vụ cho tín hữu công giáo sống tại bán đảo A Rập
bao gồm nhiều quốc gia, do Tòa Giám Quản A Rập có trụ sở tại Eden, thủ đô Yemen, phối
hợp.
Trước hết là A rập Sauđi, rộng 2 triệu 248 ngàn cây số vuông với hơn
22,7 triệu dân, 93,7% theo Hồi giáo. Các tín hữu Kitô chiếm 3,7%, còn lại 2,6% theo
các tôn giáo khác. Các thống kê năm 2004 cho biết có 801.000 người công giáo.
Tiếp đến là các Tiểu Vương A Rập thống nhất rộng 83.600 cây số vuông với hơn 4,3 triệu
dân, 75,6% theo Hồi giáo, 11,1% theo Kitô giáo, 7,6% theo Ấn giáo, và 5.7% thuộc các
tôn giáo khác. Tín hữu công giáo được khoảng 356.000 người.
Thứ ba là nước
Oman rộng 309.500 cây số vuông, với 2 triệu 400 ngàn dân, 87,4% theo Hồi giáo, 4,9%
theo Kitô giáo, 5,7% theo Ấn giáo, 2% theo các tôn giáo khác. Có 11.000 tín hữu công
giáo.
Thứ bốn là nước Qatar rộng 11.427 cây số vuông với 744 ngàn dân, 82,7%
theo Hồi giáo, 10,4% theo Kitô giáo, 2,5% theo Ấn giáo, 4,4% theo các tôn giáo khác.
Tín hữu công giáo đươc 50.000 người.
Thứ năm là nước Barhein rộng 684 cây
số vuông có 744 ngàn dân, 82,4% theo Hồi giáo, 10,5% theo Kitô giáo, 6,3% theo Ấn
giáo, 0,8% theo các tôn giáo khác. Tín hữu công giáo được 30.000 người.
Thứ
sáu là nước Yemen rộng 472.000 cây số vuông, với hơn 19,7 triệu dân, 98,7% theo Hồi
giáo, 0,2% theo Kitô giáo, 0,9% theo Ấn giáo, 0,2% theo các tôn giáo khác. Tín hữu
công giáo được 4.000 người.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị một số nhận
định của Đức Cha Bernardo Gremoli, dòng Capucino, nguyên Giám quản tông tòa bán đảo
Arập về tình hình các Giáo Hội tại đây.
Đức Cha Gremoli đã trông coi tín hữu
Kitô sống tại nhiều vùng trong bán đảo A Rập và là chứng nhân việc khai sinh ra Giáo
Hội đa chủng tộc này. Đức Cha đã từng là Giám Quản vùng A Rập trong nhiều thập niên.
Sinh trưởng tại Poppi, tỉnh Arezzo, trung Italia năm 1928, gia nhập dòng Capucino
và thụ phong Linh Mục năm 1951, cha Gremoli đã tới làm việc tại bán đảo A rập năm
1976.
Trong 30 năm qua Đức Cha đã nắm giữ vai trò quan trọng, vì với sự nồng
hậu và tính kiên nhẫn Đức Cha đã có các liên lạc với các giới chức A rập và hồi giáo,
bảo đảm cho công tác tông đồ mục vụ của một Giáo Hội bao gồm các anh chị em di cư
từ khắp nơi đến làm việc trong các vương quốc A Rập.
Hỏi: Thưa Đức
Cha Gremoli, Đức Cha đã đến bán đảo
A rập trong tình trạng như thế nào?
Đáp: Khi tôi
tới các vương quốc A Rập tình hình lúc đó khó khăn, vì vị Giám Quản Tông Tòa trước
tôi đã bị trục xuất khỏi tòa Giám Quản tại thành phố Eden. Số linh mục chỉ được 11
vị. Các nhà thờ thì qúa ít không đủ. Lúc đó lại là thời gian kỹ nghệ khai thác dầu
hỏa đang lên cao. Có hàng chục ngàn công nhân từ khắp nơi trên thế giới đến làm việc
cho các hãng khai thác dầu hỏa và các hãng xưởng xây cất. Tôi đã lập tức kêu gọi các
linh mục dòng capucino cũng như các dòng tu khác đến làm việc, kể cả trong một thời
gian ngắn, tùy ý các vị.
Trong số các công nhân trẻ đến làm việc tại đây cũng
có những người cảm thấy tiếng Chúa gọi. Tôi đã gửi 7 người đi học ở nước ngoài và
cả 7 đều đã trở thành linh mục và trở về làm việc tại đây. Khi tôi tới bán đảo A rập
năm 1976 số tín hữu công giáo chỉ được khoảng 200.000 người. Ngày nay tuy không có
thống kê chính xác nhưng người ta nói có ít nhất 1,5 triệu người công giáo. Nhưng
mà tôi tin chắc là số tín hữu công giáo ít nhất lên tới 3 triệu. Có một lần chúng
tôi đã làm một cuộc thăm dò sau thánh lễ Chúa Nhật và nhận thấy tín hữu tham dự thánh
lễ thuộc 93 quốc tịch khác nhau. Đa số là người ấn Độ và Phi Luật Tân.
Hỏi: Liên quan tới các nơi thờ phượng thì sao thưa
Đức Cha?
Đáp: Đây là một vấn đề phức tạp. Đã cần phải có
rất nhiều kiên nhẫn và một chút ngoại giao. Tôi đã thành công trong việc xin được
giấy phép và đất để xây các nhà thờ và trường học. Đôi khi phải đợi chờ tới 4 hay
8 năm mới được trả lời. Nhưng sau cùng phải nói rằng các kết quả đạt được đã vượt
qúa điều chúng tôi chờ đợi và mong ước. Phải ghi nhận sự kiện các tín hữu công giáo
sống tại các Tiểu Vương Quốc A Rập đã luôn luôn dấn thân tuân giữ các luật lệ của
việc chung sống và đã cho thấy lòng sùng đạo gây ấn tượng mạnh cho các giới chức địa
phương. Vì thế sau 30 năm Tòa Giám Quản bán đảo A rập đã có thể xây 11 nhà thờ và
nhà xứ, tất cả trên các vùng đất do chính quyền cấp phát một cách nhưng không. Đa
số các nhà thờ là ở trong các Tiểu Vương Quốc A rập. Nhưng cũng có 4 nhà thờ được
xây cất tại Oman, nơi trước đây không có một nhà thờ nào. Tại Barhein có một nhà thờ,
nhưng hiện nay không còn đủ chỗ cho tín hữu nữa, vì qúa nhỏ. Hiện chúng tôi cũng đang
xây một nhà thờ khác tại Qatar. Cũng giống như tại A rập Sauđi, tại Qatar tín hữu
hồi theo phái ”wahabbit”, rất là chính thống.
Hỏi: Tình hình Giáo Hội tại
A rập Sauđi thì ra sao thưa Đức Cha?
Đáp:
Tương quan với chính quyền A Rập Sauđi có nhiều khó khăn và đau đớn, vì nước A Rập
Sauđi hoàn toàn vô cảm trước bất cứ diễn văn nào liên quan tới tự do tôn giáo. Phân
nửa tổng số tín hữu Kitô bán đảo A rập sống tại A Rập Sauđi, nhưng họ lại không thể
công khai tuyên xưng và sống niềm tin của mình một cách hợp pháp. Có thể so sánh tình
trạng sống của tín hữu tại A rập Sauđi với tình trạng của Giáo Hội hầm trú xưa kia.
Chính quyền nước này không chính thức chấp nhận các linh mục, không cho phép công
khai cử hành thánh lễ, ngoại trừ trong các tòa đại sứ. Các tín hữu công giáo chỉ có
thể cầu nguyện tại nhà tư.
Chính quyền A rập Sauđi cũng cấm mọi việc tụ tập
nhau để cầu nguyện. Giữa các năm 1979 đến 1885 một vài linh mục ở A rập Sauđi dưới
dạng thức công nhân của một vài hãng xưởng đã bị khám phá ra, bị bắt giữ, bỏ tù và
trục xuất. Các Kitô hữu bị bắt gặp đang cùng nhau cầu nguyện cũng chịu cùng số phận.
Cảnh sát tôn giáo gọi là lực lượng ”mutawa” rất là hữu hiệu. Khi nghi ngờ một cuộc
tụ tập nào đó không phải là hồi giáo, là họ can thiệp ngay. Tất cả mọi nỗ lực trên
mọi bình diện từ các chính quyền, từ Tòa Thánh, và đặc biệt là từ DGH Gioan Phaolo
II, đều đã không đem lại kết qủa tích cực nào.
Hỏi: Đức Cha
có thể kể một thí dụ điển hình chứng minh cho sự chèn ép bách hại Kitô
hữu tại A Rập Sauđi không?
Đáp: Điển hình như trường hợp
anh Brian Savio O'Connor. Anh người gốc Karnataka bên Ấn Độ, di cư sang A rập Sauđi
năm 2004. Anh đã bị cảnh sát tôn giáo bắt và tra tấn, vì tội mà họ gọi là chất chứa
rượu mạnh và sách báo dâm ô. Thật ra anh có các sách Kinh Thánh và thận trọng trong
hoạt động truyền giáo. Thân nhân của anh cho biết anh đã bị giam 6 tháng, bị trừng
phạt và bị tra tấn, cột chân ngược lên đầu giộng xuống đất, bị tra tấn bằng điện,
bị chế nhạo, đánh đập và buộc phải bỏ đạo. Trường hơp của anh đã trở thành chuyện
quốc tế. Hội Đồng Giám Mục Ấn độ cũng như các phong trào và tổ chức giáo hội đã can
thiệp xin trả tự do cho anh ta. Vụ này đã khiến cho chế độ quân chủ A Rập Sau đi phật
lòng, vì nó cho thấy một A rập Sauđi tiêu cực: sự hiện diện của các Kitô hữu là một
tội rồi. Đồng thời nó cũng đã khiến cho hoạt động mục vụ kín đáo cho biết bao nhiêu
tín hữu sống lén lút tại đây gặp nguy hiểm.
A Rập Sauđi có một chế độ quân
chủ tuyệt đối và cứng nhắc. Người dân A Rập Sauđi là người Sunnít theo hệ phái ”Wahabbit”.
Người Sunít wahabblit tự coi họ là những người giữ gìn các nơi thánh La Mecca và Medina.
Họ quan niệm toàn A rập Sauđi đều là đất thánh của Hồi giáo, vì thế không thể có một
tôn giáo nào khác ngoài Hồi giáo. Tuy tình hình khó khăn như thế, nhưng cũng có một
vài linh mục lén đến được với các cộng đoàn để ban các bí tích. Trong bối cảnh khó
khăn đó nhiệm vụ của giáo lý viên rất là quan trọng. Họ dậy giáo lý và chủ sự các
buổi cử hành Lời Chúa tại các tư gia, và tìm cách bảo toàn an ninh cho mọi người.
Hỏi: Đức Cha có thể tiên đoán tình hình tương lai
của Giáo Hội tại bán đảo A Rập hay không?
Đáp:
Khó mà có thể tiên đoán được tương lai của Giáo Hội tại đây. Cần phải thực tế. Chúng
ta không thể yêu sách tương quan hai chiều liên quan tới các vấn đề nền tảng, và các
quyền, mà chính các nhóm hồi thiểu số sống trong các nước A rập cũng không được hưởng.
Điều nền tảng là có thể tự do sống đạo, có nơi thờ tự và được tôn trọng như là con
cái Thiên Chúa. Nếu chính quyền cho phép tôi xây nhà thờ với điều kiện không được
trưng bầy thánh giá trên nóc nhà thờ, thì tôi không thể yêu sách xây một tháp chuông
cao với tượng Chúa trên đó. Bởi nếu không, tôi cũng sẽ khiến cho chính quyền địa phương
gặp khó khăn, khi họ đã tỏ ra dễ dãi đối với chúng tôi. Gây thêm xung khắc giữa Tây
Âu và thế giới hồi giáo là điều vô ích và nguy hiểm.