Trong thời gian qua nhiều người tỏ ra bi quan đối với tương lai của Kitô giáo tại
Âu châu. Trước trào lưu tục hóa cũng như khuynh hướng tương đối hóa luân lý ngày càng
gia tăng và cảnh tín hữu kitô các nước tây âu xa rời lòng tin, họ tin chắc Kitô giáo
sẽ tàn lụi tại đại lục có nền văn hóa kitô cổ kính này. Nhưng cũng có người không
tin như vậy, điển hình là ông Philip Jenkins, tác giả cuốn sách mới xuất bản tựa đề
”Lục địa của Thiên Chúa: Kitô giáo, Hồi giáo và các cuộc khủng hoảng tôn giáo của
Âu châu” (God's Continent: Christianity, Islam and Europe's Religious Crisis”. Sách
do nhà in của đại học Oxford xuất bản. Đây là cuốn thứ ba trong bộ sách 3 cuốn của
học giả Jenkins, trong đó ông trình bầy hiện tình tôn giáo tại Âu châu một cách ít
thê thảm hơn. Hai cuốn đầu tựa đề ” ”Các nước kitô giáo sắp tới” (The next Christendom)
và ”Các gương mặt mới của Kitô giáo” (The new faces of Christianity). Cả hai cuốn
trình bầy sự lớn mạnh của Kitô giáo tại các nước miền nam bán cầu, tức các quốc gia
đang trên đường phát triển. Cuốn thứ ba, trái lại, tập trung vào Âu châu, nơi có số
tín hữu thực hành đạo giảm sút và có sự hiện diện của người hồi di cư gia tăng.
Học giả Jenkins đưa ra câu hỏi: Âu châu cũng sẽ phải sống kinh nghiệm của các
nước Bắc Phi, nơi Kitô giáo đã bị Hồi giáo thay thế hay sao? Nhiều người nghĩ như
vậy, nhưng ông Jenkins nghĩ rằng tuy mức thực hành đạo của các kitô hữu âu châu không
ở độ lý tưởng, tình hình sống đạo tại Âu châu hiện nay không thê thảm như có người
muốn chúng ta tin như thế.
Thật thế, tuy số sinh tại các nước âu châu giảm
sút, nhưng bù lại có số người di cư đến từ các nước hồi giáo. Tại đa số các nước Âu
châu số người hồi chiếm 4-5% tống số dân. Nếu so sánh với Hoa Kỳ người ta thấy tại
Hoa Kỳ các nhóm dân gốc mỹ châu la tinh, á châu và các nhóm chủng tộc khác chiếm tới
30% tổng số dân.
Các chuyên viên Hoa Kỳ đã đưa ra các dự phóng cho tương lai
được học giả Jenkins lấy lại, theo đó hiện nay Âu châu có khoảng 15 triệu người hồi,
nhưng vào năm 2025 sẽ có thể tăng lên 28 triệu. Tuy nhiên mức gia tăng không đồng
đều tại khắp nơi. Vào năm 2025 các nước Pháp, Đức và Hòa Lan sẽ có từ 10 đến 15% tổng
số dân là người hồi. Ông Jenkins cho rằng nếu coi Âu châu một cách rộng rãi hơn, tức
trải dài cho tới biên giới của cựu Liên Xô, thì khi đó số người Hồi vào năm 2025 sẽ
lên tới 40 triệu, nghĩa là chỉ chiếm khoảng 8% tổng số dân. Ngoài ra ông Jenkins cũng
cho rằng Kitô giáo cũng như Hồi giáo phải đương đầu với nhiều khó khăn, phát xuất
từ khuynh hướng tục hóa của nền văn hóa âu châu. Và thật là điều sai lầm, khi nghĩ
rằng Hồi giáo được miễn nhiễm khỏi khuynh hướng có khả năng thay đổi cả các yếu tố
triệt để nhất. Ông cũng cảnh giác quan điểm hốt hoảng thái qúa đối với sự hiện diện
của người hồi tại Âu châu. Và thật là sai lầm, khi coi toàn khối người hồi sống tại
Âu châu đều là những người qúa khích hay cực đoan hết. Dĩ nhiên là có một số người
hồi cực đoan nào đó, sống xa lạ với xã hội chung quanh, nhưng bên cạnh các người hồi
qúa khích ấy không được quên rằng cũng có các người hồi hòa hoãn khoan nhượng và thích
ứng với nếp sống âu châu.
Liên quan tới các vấn đề phát xuất từ sự hiện diện
của người hồi tại Âu châu, ông Jenkins cho rằng cần phải phân biệt. Ngoài các căng
thẳng do chính Hồi giáo gây ra, cần phải chú ý đến các yếu tố kinh tế, chủng tộc,
xã hội và truyền thống văn hóa của các nước quê hương của người di cư, là những người
không dính dáng gì đến Hồi giáo trong nghĩa hẹp và phong trào hồi giáo cuồng tín.
Cũng chính vì thế học giả Jenkins cho rằng Âu châu có thể đi theo con đường của
Hoa Kỳ, thành công trong việc hội nhập các đám đông người di cư thuộc nhiều tôn giáo
và chủng tộc khác nhau. Nhưng ông cũng chấp nhận là có một con đường khác: đó là con
đường như kiểu Libăng, trong đó căn cước tôn giáo gắn liền với các điều kiện kinh
tế và xã hội, dẫn đưa tới một tương lai đáng lo ngại hơn.
Cảnh tục hóa lan
tràn tại Âu châu là một chướng ngại đối với các chính quyền, vì nó ngăn cản các chính
quyền thanh thản duyệt xét và đương đầu với các yếu tố và các vấn đề tôn giáo. Khuynh
hướng của các giới chức chính trị ngày càng khinh rẻ hay tấn kích và bài bác tôn giáo,
đặc biệt là Kitô giáo, trở thành chướng ngại chính không có giải pháp.
Trong
một chương của cuốn sách nói trên học giả Jenkins cũng phân tích ảnh hưởng của nạn
tục hóa đối với các Giáo Hội Kitô. Cảnh Kitô giáo xuống dốc đặc biệt nghiêm trọng
trong các vùng tin lành và trong các nước đã phải sống dưới ách thống trị của chế
độ cộng sản vô thần Liên Xô. Giáo Hội Công Giáo đã duy trì được mức tham dự cao, nhưng
lại phải đương đầu với nhiều thách đố khác. Các sức mạnh xã hội và văn hóa đã ảnh
hưởng trên dân chúng sâu đậm tới độ các chiều kích gia đình tại các nước công giáo
đã bị suy sụp tới mức thấp nhất tại Âu châu. Ngoài ra, tại các nước như Italia và
Tây Ban Nha, việc lui tới nhà thờ liên tục giảm sút trong thập niên vừa qua. Ơn gọi
linh mục và tu sĩ giảm nhiều và hiếm thấy các dấu chỉ cho thấy một hình thức đổi chiều
nào đó. Tuy nhiên bên cạnh các yếu tố tiêu cực đó chúng ta phải duyệt xét các yếu
tố tích cực. Mặc dù có hiên tượng tôn giáo suy đồi, tại Âu châu vần còn có dân kitô.
Tại các nước như Ba Lan, Slovac, và Sloveni mức độ tham dự các buổi cử hành phụng
vụ còn rất cao. Bên Anh quốc các người di cư Ba Lan và Croat đã khiến cho tôn giáo
tái nở hoa trong nhiều vùng.
Học giả Jenkins ghi nhận một sự kiện khích lệ
và trao ban hy vọng. Đó là sự kiện ĐGH Biển Đức XVI rất được dân chúng yêu thích và
ngài thu hút tín hữu và du khách hành hương. Tín hữu tuốn đến để lắng nghe ĐTC với
con số vượt kỷ lục gần 8 triệu người trong hai năm làm Giáo Hoàng.
Ngoài ra
còn có một hiện tượng tích cực khác là phong trào hành hương tôn giáo lan tràn khắp
nơi. Nó là dấu chỉ sức sống của Kitô giáo tại Âu châu. Trong thập niên 1950 số tín
hữu hành hương Lộ Đức là 1 triệu mỗi năm. Hiện nay hàng năm có trên dưới 6 triệu người
hành hương Lộ Đức. Đền thánh Đức Bà Czestochowa bên Ba Lan cũng thu hút mấy triệu
người hành hương mỗi năm, trong đó có rất nhiều người trẻ.
Đền thánh Đức Mẹ
Fatima mỗi năm thu hút hơn 4 triệu tín hữu hành hương. Trong khi bên Tây Ban Nha số
tín hữu viếng thăm đền thánh Giacôbê Tông Đồ tại Santiago de Compostela mỗi năm gia
tăng nửa triệu. Italia cũng có nhiều trung tâm thánh mẫu, nổi tiếng nhất là Đền Thánh
Đức Bà Loreto. Tất cả là bằng chứng cho thấy lòng tin của Kitô hữu Âu châu vẫn còn
sinh động. Ngoài ra ông Jenkins cũng ghi nhận mấy trăm vị thánh mới do ĐGH Gioan
Phaolo II tôn phong. Sự kiện này cũng giúp gia tăng lòng đạo đức bình dân. Khi so
sánh dấn thân của Đức Gioan Phaolo II với dấn thân của Đức Biển Đức XVI học giả cho
thấy cả hai vị Giáo Hoàng đã góp phần canh tân lòng tin công giáo và lành mạnh hóa
các gia tài của Giáo Hội sau một thời gian gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng.
Sự
kiện có nhiều dòng tu và phong trào tôn giáo mới trong Giáo Hội Công Giáo cũng là
một yếu tố khác nữa khiến cho học gia Jenkins xác tín rằng Kitô giáo Âu châu không
muốn nghe nói đến cái chết của mình. Đại hội quốc tế các phong trào trong Giáo Hội
tại Roma hồi năm 1998 và 2006 mạnh mẽ minh xác điều đó. Phong trào Canh Tân Đặc sủng
Thánh Linh cũng tái nở hoa trong nhiều nước âu châu. Trong nghĩa này, tuy số linh
mục tu sĩ có giảm sút nhưng sự tham gia của giáo dân vào cuộc sống Giáo Hội lại gia
tăng mạnh mẽ. Họ là một tài nguyên qúy báu cho sự canh tân cuộc sống Giáo Hội. Con
số đông đảo các bạn trẻ tham dự các sinh hoạt của Ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại Koeln
bên Đức năm 2005 cũng là một dấu chỉ khác chứng minh cho sức sống của kito hữu âu
châu. Ngoài ra cũng nên nghi nhận sự kiện các nhóm tin lành và sặc sủng thánh linh
cũng gia tăng trong các Giáo Hội Tin Lành.
Ngoài ra còn có một nguồn sức mạnh
khác nữa cho Kitô giáo âu châu: đó là phong trào di cư. Bên cạnh các người hồi di
cư cũng có một phần lớn các người di cư theo Kiô giáo. Số sinh tại Italia giảm sút,
nhưng tại Roma chẳng hạn, người ta thấy sự hiện diện của hàng chục ngàn người di cư
công giáo đến từ nhiều nước khác đặc biệt là từ Phi Luật Tân.
Thế rồi cũng
còn có sự hiện diện gia tăng của các linh mục tu sĩ nam nữ đến từ các đại lục khác,
giúp tái lập cán cân ơn gọi tại Âu châu. Học giả Jenkins cho biết Anh quốc hiện tiếp
đón 1500 thừa sai thuộc 50 nước khác nhau, trong đó có nhiều vị gốc phi châu. Một
thí dụ khác nữa là một giáo phận bên Pháp đã tiếp đón 30 linh mục từ các nước cựu
thuộc địa phi châu.
Vậy tại sao người ta lại có cái nhìn bi quan tiêu cực
đối với tương lai của Kitô giáo âu châu như thế? Học giả Jenkins tố cáo các phương
tiện truyền thông âu châu duy đời cực đoan và thù nghịch tôn giáo, phóng đại xuyên
tạc sự thật, và cố tình không biết đến các khuynh hướng tích cực của lòng tin. Ở điểm
này họ thua Hoa Kỳ. Ngoài ra giới lãnh đạo âu châu có khuynh hướng rất duy đời và
vô cảm trước áp lực của công chúng. Tình trạng này dẫn đưa họ tới một lập trường chống
đối Kitô giáo và khinh thường các tâm tình của nhiều kitô hữu. Chính vì thế ông Jenkins
cho rằng một đàng không thể phủ nhận rằng Kitô giáo tại Âu châu đang trải qua một
thời kỳ khủng hoảng, đàng khác sẽ là một sai lầm lớn, nếu giản lược thái qúa các vấn
đề bằng cách không biết đến các khía cạnh tích cực có thực trong cuộc sống kitô tại
Âu châu.