Luca là thiếu niên nghèo tại Ấn Độ. Như bao thiếu niên nghèo khác của quốc gia nghèo,
cậu phải đi làm kiếm tiền giúp đỡ cha mẹ nuôi sống gia đình. Cậu bắt đầu học nghề
nơi một xưởng mộc chuyên đóng giường và bàn ghế. May mắn thay ông chủ xưởng mộc rất
tốt, vì ông cũng thật nghèo. Tiền kiếm được chỉ đủ để trả lương cho thợ và nuôi sống
gia đình. Chính Luca kể lại kinh nghiệm học nghề với ông chủ nghèo tiền của nhưng
giàu tình người.
Chúng tôi làm việc dưới bóng mát một gốc cây lớn. Tuy vậy,
chúng tôi ai nấy đều nhễ nhại mồ hôi. Ông chủ và cũng là ông thầy của tôi ngồi đối
diện bên kia đầu miếng gỗ. Chúng tôi mỗi người một đầu, cùng kéo chiếc bào lớn.
Thầy đẩy chiếc bào đi tới và tôi có nhiệm vụ giúp thầy bằng cách kéo chiếc bào về
phía tôi rồi đẩy trả lại phía thầy. Tất cả nghệ thuật của kẻ học nghề ở chỗ cảm nhận
ra hướng đi của chiếc bào mà thầy muốn đẩy tới để tiếp nhận. Tôi phải tự mò mẫm và
phải chú ý từng ly từng tí.
Thêm vào cái khó khăn của kẻ học nghề là thầy
tôi rất tiết kiệm lời nói. Phải chi thầy ra lệnh: ”Kéo bên phải”, ”Kéo từ từ”, ”Kéo
mạnh hơn”, thì may mắn cho tôi biết chừng nào! Đàng này thầy bỏ tôi một mình, mò mẫm
với nghệ thuật kéo, nghệ thuật đưa. Tôi đành tự tìm ra phương cách kéo, đưa sao cho
đúng ý thầy bằng cách nhìn từng cử động của thầy.
Nhưng rồi đường đi nước
bước của chiếc bào bỗng trở nên ”ngập ngừng”, ”do dự”, bởi vì cậu thợ học nghề đang
lúng túng không biết phải kéo nó theo hướng nào! Thế là thầy nhận ra sự lúng túng
của tôi. Không nói lời nào, thầy lặng lẽ đưa cánh tay phải về phía tôi, và đặt trên
bàn tay trái của tôi, đang cầm đầu kia của chiếc bào. Bàn tay tôi được bàn tay thầy
hướng dẫn, tôi chỉ việc cử động theo động tác của tay thầy. Nhịp đưa kéo của chiếc
bào lại trở nên đều đặn.. Tôi cảm thấy lòng mình ấm lại vì cảm nhận tình thương của
thầy truyền cho tôi qua bàn tay thầy hướng dẫn bàn tay tôi!
Ông chủ và là
Vị Thầy của tôi thật giản dị và tốt bụng. Khi nào thấy tôi mệt, ông liền bảo tôi nghỉ.
Ông cũng luôn tỏ ra lịch sự nhã nhặn với khách hàng. Xưởng mộc của chúng tôi rất khiêm
tốn, chỉ gồm có 8 người: hai anh em ông chủ, hai người thợ cưa gỗ, hai người thợ đóng
bàn ghế và hai người thợ học nghề, trong đó có tôi.
Xưởng mộc cũng chỉ rộng
bằng bóng mát một cây lớn. Vì thế chúng tôi làm việc bên ngoài xưởng mộc, dưới bóng
cây bên cạnh xưởng, gần đường xe chạy. Khi đến giờ trưa, chúng tôi nghỉ tay để dùng
bữa. Chính lúc này tôi mới có giờ quan sát xe cộ chạy trên đường. Tôi đau đớn thầm
nhủ:
- Không biết ai có sáng kiến chế ra xe đò và xe nhà chạy trên đường như
thế này? Bởi vì thật tội nghiệp cho chúng tôi, những người nghèo ngồi dưới đất bên
cạnh đường: mỗi lần chiếc xe đò chạy qua là một lần chúng tôi lãnh đủ. Bụi đường tung
bay mù mịt!
Trong khi ăn, ông thầy thích tôi hỏi vấn đề thuộc phạm vi tôn
giáo. Những lúc đó thầy nói thao thao bất tận về Đức Tin Công Giáo. Tôi sung sướng
lắng nghe lời ông nói, phục sát đất về mức độ hiểu biết, sự khôn ngoan, từng trải
sự đời và lòng nhân ái độ lượng của ông.
Thầy tôi quả nghèo thật nghèo. Cả
gia đình ông chen chúc trong một căn nhà bằng tre lợp lá dừa, chỉ đủ che nắng nhưng
không chống được mưa và lạnh. Ông chỉ có một mảnh vải che người và ông giặt nó khi
ông tắm. Ông không mang giày cũng không đi dép. Tất cả gia tài sự nghiệp của ông và
của gia đình ông nằm trọn trong đôi bàn tay vững chắc và đầy nhân ái của ông. Với
đôi bàn tay, ngồi bệt dưới đất, ông khéo léo đẽo gọt những mãnh gỗ để sản xuất bất
cứ vật dụng nào ông muốn, hoặc khách hàng đặt làm. Và tài năng đẽo gọt này ông truyền
sang người con trai cả, bằng cách hướng dẫn đôi tay vụng về của cậu, lần theo đường
đi lão luyện của ông.
... ”Con khôn là niềm vui của cha, con dại là nỗi
buồn của mẹ. Của cải phi nghĩa không sinh lợi, công chính cứu khỏi chết. THIÊN
CHÚA không để người công chính đói. Ngài ghê tởm
lòng tham của kẻ gian ác. Tay lười biếng làm cho nghèo, tay chăm
chỉ làm cho giàu. Kẻ thu lượm trong mùa hè là con khôn. Kẻ ngủ
trong mùa gặt là con dại. Phúc lành đổ trên đầu
người công chính. Tai họa đầy ngập miệng kẻ gian ác. Người
công chính được ghi nhớ và được chúc phúc. Kẻ gian ác bị lãng
quên và bị hủy diệt” (Sách Châm Ngôn 10,1-7).
(Charles Lepetit, ”MES
AMIS LES PAUVRES”, Nouvelle Cité, Paris 1984, trang 66-68).