Tình hình cuộc sống của các kitô hữu trong các nước hồi giáo vùng Địa Trung Hải
Phỏng vấn ông Michele Zanzucchi, chủ bút tuần báo ”Città Nuova” về tình hình cuộc
sống của các Kitô hữu trong các nước hồi giáo
Ngày 27-6-2007, ông Michele
Zanzucchi, đã tổ chức cuộc họp báo để giới thiệu cuốn sách của ông tựa đề ”Các Kitô
hữu trong các vùng đất của Kinh Coran. Du hành trong các nước Hồi giáo vùng Địa Trung
Hải”. Cuộc họp báo đã diễn ta tại trung tâm Liên hiệp báo chí Italia ở Roma.
Đây
là cuốn sách kể lại một cuộc du hành dài qua 14 quốc gia gia hồi giáo: từ Thánh Địa
cho tới Bosni, qua Marốc, Algerie, Tunisie, Libie, Ai Cập, Palestine, Giordani, Siri,
Libăng, Thổ Nhĩ Kỳ, Macedonia, Kosovo, Albanie, Bosnie và Erzegovine.
Trong
cuộc hành trình dài đó ông Zanzucchi đã gặp các Giám Mục, Thượng Phụ, linh mục, tu
sĩ và giáo dân nam nữ, các thương gia, các người cha gia đình. Và ông ghi nhận rằng
các nhóm thiểu số Kitô tại các quốc gia hồi giáo là một tài nguyên to lớn giúp giải
quyết các xung khắc. Ông đã khám phá ra một sự phong phú nhân lực không tưởng tượng
được, nhưng đồng thời cũng trông thấy biết bao nhiêu khổ đau của người dân các nước
này. Ông xác quyết là không có sự xung đột giữa các nền văn minh, nhưng chỉ có sự
đối chọi giữa các nhóm dân.
Giới thiệu cuốn sách với cử tọa, nhà báo người
Tunisie, ông Adnane Mokrani, nhấn mạnh rằng cần phải tạo ra một liên minh giữa các
tín hữu hồi và các tín hữu Kitô, để thăng tiến phát triển xã hội và nền dân chủ. Sự
hiện diện của các Kitô hữu trên quê hương của Đức Giêsu vô cùng cần thiết vì nó giúp
đối thoại và bảo đảm cho chế độ đa nguyên.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy
vị và các bạn bài phỏng vấn giáo sư Zanzucchi về cuốn sách nói trên. Ngoài chức chủ
bút tuần báo ”Città Nuova - Kinh Thành Mới”, ông còn là giáo sư môn báo chí tại đại
học giáo hoàng Gregoriana ở Roma và là tác giả của 20 cuốn sách.
Hỏi:
Thưa giáo sư Zanzucchi, từ Marốc tới Bosni, qua Thánh Địa, tình
hình cuộc sống của các Kitô hữu trong các vùng đất, mà giáo sư
đã viếng thăm, như thế nào?
Đáp: Không thể
khẳng định rằng tình hình tại các vùng đất này giống nhau. Lý do là vì mỗi một nước
đều có các sắc thái tôn giáo riêng biệt, mức độ khoan nhượng và sự cởi mở đối với
“cái khác mình” cũng khác nhau. Chẳng hạn, tại Irak, các Kitô hữu có nguy cơ biến
mất khỏi quốc gia này, vì chiến tranh kéo dài và vì các trào lưu hồi giáo cuồng tín;
trong khi tại Siri thì tường hợp hơi khác: các Kitô hữu được hưởng một sự tự do kín
đáo và có thể có sáng kiến riêng trong việc sống đạo. Họ sống trong một bầu khí xã
hội hòa hợp. Do đó, không thể nói rằng ở bất cứ nơi đâu trong thế giới hồi giáo các
Kitô hữu cũng bị ”bách hại”; đặc biệt trong các nước chung quanh vùng Địa Trung Hải,
cả khi có vài tình trạng nguy hiểm và gần như là tình trạng bị bách hại.
Tưởng
cũng không nên quên sự kiện có các nhóm tin lành ”qúa khích” gốc Hoa Kỳ, đã gây ra
các cuộc theo đạo bất hợp pháp theo luật lệ của các nước hồi, kể cả với sự trợ giúp
tài chánh nữa, nên họ khiến cho giới lãnh đạo hồi giáo và dân chúng địa phương thù
nghịch.
Hỏi: Trong sách giáo sư đã kể lại các chứng từ anh
hùng và thánh thiện của các Kitô hữu sống trong các vùng đất tử
đạo. Đâu là các câu chuyện đã đánh động
giáo sư nhất và tại sao?
Đáp: Trong số biết bao nhiêu câu
chuyện góp nhặt trong sách, tôi còn nhớ một vài chuyện. Trước tiên là chuyện liên
quan tới Đức Cha Giovanni Martinelli, Giám Mục Tripoli, là người có tinh thần đối
thoại kiên trì, luôn luôn sẵn sàng làm chứng cho Tin Mừng. Đức Cha đã thành công trong
việc khiến cho chính quyền cho phép tái mở cửa nhà thờ chính tòa Đức Maria của các
Thiên Thần, trong thủ đô Tripoli, rồi giao cho các anh em Anh giáo trông coi. Đây
là dấu chỉ của tinh thần đối thoại đại kết và liên tôn.
Thứ hai là câu chuyện
của ông phó thị trưởng thành phố Bếtlehem, có con gái bị giết, do một tràng súng máy
của một toán tuần tiễu do thái bất cẩn. Ông đã tha thứ cho các binh sĩ do thái, nhưng
ông vẫn tiếp tục yểm trợ cộng đoàn Kitô người Palestine cả trên bình diện chính trị
nữa, trong một bối cảnh rất khó khăn như bối cảnh các vùng đất của người Palestine,
đang mất dần các Kitô hữu, vì họ tìm cách di cư ra nước ngoài sinh sống.
Hỏi: Thưa ông, trong bao nhiêu thế kỷ vùng Trung Đông đã
là chiếc nôi của Kitô giáo và là vùng rao truyền Tin Mừng. Nhưng rồi
từ từ sự hiện diện của tín hữu Kitô giảm sút và bị phân tán mỏng. Điển
hình như những gì đã và đang xảy
ra bên Libăng. Sau chuyến du hành qua 14 nước hồi giáo,
ông đã có cảm tưởng gì? Tại sao các Kitô hữu đã
không gia tăng nhân số, mà lại chạy trốn. Và đâu là viễn
tượng gần và xa của Kitô giáo vùng Trung Đông?
Đáp: Sự hiện diện của tín hữu Kitô rất cần thiết đối với chính các anh chị em
hồi giáo, như giáo sư Adnane Mokrani đã nói trong buổi họp báo giới thiệu cuốn sách
của tôi. Đây không phải là một khẳng định tầm thường: thật thế, vì sự hiện diện của
Kitô giáo có tầm quan trọng nền tảng đối với cuộc sống xã hội, chính trị và tôn giáo
của vùng này, không chỉ vì sự kiện sự hiện diện của Kitô giáo tại đây cổ xưa hơn sự
hiện diện của Hồi giáo và như thế trên bình diện lịch sử cũng quan trong hơn, mà còn
bởi vì các tín hữu Kitô biết làm trung gian, biết quy tụ và kết hợp các thực tại không
đồng đều nhau, như một dân biểu Siri hồi đã nhận xét.
Các Kitô hữu rời bỏ
quê hương vì nhiều lý do khác nhau: có các lý do kinh tế, rồi cũng có các lý do chính
trị, xã hội và tôn giáo nữa. Nhưng hai lý do kinh tế và chính trị là hai lý do chính.
Tình trạng chiến tranh bất ổn khiến cho kinh tế suy sụp và công việc làm ăn bị ảnh
hưởng nặng nề tạo ra điều kiện không thể sống còn được. Bên cạnh đó cũng có các khó
khăn trên bình diện tôn giáo nữa.
Ngoài ra tưởng cũng nên nhấn mạnh rằng các
Kitô hữu vùng này có thể cậy dựa trên sự trợ giúp từ các cộng đoàn hải ngoại. Do đó
việc đoàn tụ cũng dễ dàng hơn là đối với nhiều người hồi cũng muốn bỏ nước ra đi vì
cùng các lý do kinh tế chính trị xã hội và tôn giáo, nhưng không làm được. Sự kiện
”mất máu” này sẽ vẫn tiếp tục trong thời gian tới. Cuộc xuất hành có thể chậm lại
hay ngưng hẳn, nhưng với điều kiện là nút thắt giữa Israel và người Palestine phải
được tháo cởi và giải quyết; và các cộng đoàn Kitô Tây Âu phải yểm trợ liên tục và
mạnh mẽ sự hiện diện của Kitô hữu tại các vùng đất này.
Hỏi: Làm sao có
thể làm chứng cho Chúa Kitô ở nơi, mà cả việc kêu danh thánh Ngài cũng
bị cấm đoán? Và làm thế nào để cho sứ mệnh đem
sự thật và tình bác ái đến trong các vùng đất
này, được hữu hiệu, thưa ông?
Đáp: Tôi còn nhớ lời
của biết bao nhiêu Giám Mục và Thượng Phụ, công giáo cũng như chính thống tôi đã gặp,
nói với tôi. Cách thức đầu tiên là chứng từ cuộc sống, theo Chúa Kitô bằng cách giãi
sáng ra chung quanh tình yêu thương và lòng bác ái. Chứng tá không lời đó, mà các
anh chị em giáo dân Kitô sống một cách trọn hảo qua sự tận tụy phục vụ trong các nhà
thương, các công xưởng, các thư viện, trong tương quan với hàng xóm làng giềng...
có lẽ hữu hiệu hơn là lời rao giảng, vì nó thật, vì nó là tin mừng sống động, không
thể phủ nhận được. Thứ hai là kiểu làm chứng xem ra ngày càng cần thiết hơn đó là
tương quan đại kết giữa các Kitô hữu thuộc nhiều Giáo Hội Kitô khác nhau. Nếu người
hồi giáo trông thấy sự hiệp nhất của tất cả mọi tín hữu Kitô, thì tính cách đáng tin
cậy của Kitô hữu sẽ gia tăng một cách rất mạnh mẽ, như tôi đã từng được chứng kiến
tại Aleppo bên Siri, tại Tirana bên Albani, và tại Algeri cũng như Tripoli.
Dĩ nhiên, trong các vùng đất này không có tự do tôn giáo đích thực cho phép rao truyền
Tin Mừng trọn vẹn, nhưng cần phải nhanh chóng hoạt động, kể cả và nhất là từ bên ngoài
nữa, để tạo ra sự khoan nhượng đích thật trong lãnh vực này, để sau cùng có thể đạt
tới chỗ tự do thay đổi tôn giáo, tự do theo tôn giáo mình muốn. Đường đi trong chiều
hướng này không phải là dễ dàng, vì qúa khứ bị thống trị bởi chế độ thuộc địa và đế
quốc vẫn còn đè nặng trên các tâm thức của đa số người hồi giáo, ngày càng được các
phương tiện truyền thông thúc giục hiệp nhất sát cánh với nhau hơn. Chỉ cần nghĩ tới
vùng Magreb, là vùng Bắc Phi châu, thì đủ hiểu. Trong vùng này còn có những người
đã từng chứng kiến cảnh các thừa sai đến sau các lượng lượng thực dân xâm lăng. Theo
tôi nghĩ, tự do tôn giáo trong các vùng này sẽ chỉ có thể được chiếm hữu với việc
củng cố công lý và đối thoại quốc tế mà thôi.
Hỏi: Đâu là các viễn
tượng nghiệm chỉnh cho một cuộc đối thoại phong phú và một sự
tự do tôn giáo thực sự tại các quốc gia có đa số dân theo hồi giáo?
Đáp: Người ta thường nói là không thể đối thoại, nếu không có một căn cước mạnh.
Đúng thế. Mới đây Đức Cha Shlemon Warduni, Giám Mục giáo phận công giáo Canđê của
thủ đô Baghdad có nói với tôi rằng sự trợ giúp đầu tiên mà các Kitô hữu Irak xin các
Kitô hữu Tây Âu: đó là sống như những Kitô hữu đích thật, chứ đừng sống như là nô
lệ của chủ thuyết tương đối. Điều này cần thiết hơn là việc biểu tình phản đối chống
lại tình trạng thiếu tự do tôn giáo tại các quốc gia có đa số dân theo hồi giáo.
Thật ra theo tôi, đối với tín hữu Kitô căn cước và đối thoại luôn luôn đi đôi với
nhau. Căn cước Kitô càng rõ ràng bao nhiêu, thì cuộc đối thoại lại càng có thể tiến
xa bấy nhiêu, nhưng mà phải là căn cước thật chứ không phải thứ Kitô giáo bị giản
lược thành khuynh hướng trộn lẫn tôn giáo, chủ thuyết tương đối hay ưa hưởng nhàn.
Và cuộc đối thoại càng đích thật bao nhiêu, thì căn cước Kitô lại càng được củng cố
mạnh mẽ bấy nhiêu. Đó là điều mà các tín hữu Kitô trong các vùng đất của Kinh Coran,
đang làm chứng. Chắc chắn các năm sắp tới sẽ là thời gian khó khăn, vì các căng thẳng
chính trị, xã hội và kinh tế đã đến độ trầm trọng. Nhưng cho dù có bé nhỏ tới đâu
đi nữa, sự hiện diện của các tín hữu Kitô sẽ luôn luôn là suối nguồn trao ban hy vọng:
niềm hy vọng Kitô.