Từ rất lâu năm, nữ tu Gabrielle Gorrissen chia sẻ cuộc sống của người
du mục. Chị kể lại kinh nghiệm như sau.
Dân du mục! Người ta còn gọi bằng
tên ”Dân du hành, người con của Gió, kẻ sống lang thang”. Chứng từ của tôi là câu
chuyện tình với một dân tộc thường bị hất hủi, khinh rẻ và xua đuổi mọi nơi. Đây là
một dân tộc lang thang nay đây mai đó với chính cuộc sống, chủng tộc, tâm thức và
ngôn ngữ của mình. Hôm qua cũng như hôm nay, người du mục vẫn còn bị xã hội ruồng
rẩy, không thèm biết đến cũng chả yêu thương!
Điều đánh động lòng tôi nhất
là cái nghèo nơi người du mục. Người du mục nghèo vì họ không dự phòng trước. Họ sống
giờ phút hiện tại. Cố gắng của họ tùy thuộc nơi nhu cầu tức khắc, chứ không bao giờ
dài lâu. Người du mục nuôi sống gia đình ngày nào hay ngày đó. Họ có thói quen sống
với anh chị em cùng màu da, cùng điều kiện như: không được coi trọng, bị truy nã,
không nơi dừng chân và không ai quý chuộng.
Nhưng chính vì người du mục nghèo,
nên Giáo Hội cần chú ý săn sóc họ. Sự có mặt của tôi giữa người du mục muốn nói với
họ rằng: ”THIÊN CHÚA yêu thương họ”. Vì nghèo nên lòng người du mục rất quảng đại.
Không bao giờ một người du mục làm ngơ trước sự nghèo đói của người đang trong cơn
túng bẫn. Một thanh niên du mục kể tôi nghe: ”Em đang đi ngoài đường, bỗng một người
đàn ông giơ tay xin em 5 đồng. Em liền rút túi cho ông ta. Ông ta hết sức vui mừng.
Em cũng thế”.
Người du mục sống liên đới, khiêm tốn, huynh đệ, kính trọng
người già và hết lòng yêu thương gia đình. Nơi họ không có vua chúa, thủ tướng, nhưng
chỉ có bộ tộc. Tinh thần độc lập, cuộc sống lang thang nay đây mai đó không cho phép
họ lập thành tổ quốc. Vương quốc của người du mục là một huyền thoại.
Lần
đầu tiên tôi đến làm quen và gặp gỡ với nhóm du mục sống tại Pau, miền Tây Nam nước
Pháp, là vào năm 1967. Lúc ấy tôi thật e dè và sợ sệt. Nhưng các trẻ em chạy bu theo
tôi làm tôi cảm thấy dạn dĩ. Tôi hơi ngỡ ngàng bước vào một thế giới xa lạ. Nhưng
lòng tôi tràn đầy ước muốn phục vụ và yêu thương họ như người anh chị em đích thực
của tôi.
Từ sau lần gặp gỡ ”e ngại thẹn thùng” ấy, tôi liên tiếp đến thăm
họ. Trước lạ sau quen. Sau nhiều lần viếng thăm, tôi hiểu là mình phải làm đơn xin
cho họ có nơi chốn để trọ và để săn sóc sức khỏe. Các trẻ em cần tôi chăm sóc chúng.
Tôi bắt đầu dạy giáo lý cho các trẻ em. Thế giới thiếu nhi khao khát học hỏi các điều
về Chúa, thích hát, thích vẽ và thích viết. Trong khi người lớn cũng ao ước tổ chức
các buổi họp. Nhưng chúng tôi không có phòng ốc. Thế là Linh Mục Tuyên Úy mua cho
chúng tôi một chiếc xe ca cũ, dùng làm nơi hội họp và nhiều chuyện khác nữa.. Năm
1970, các người du mục quyết định xây một nhà nguyện. Chúng tôi làm đơn xin ông thị
trưởng thành phố cấp cho một nơi dùng làm vườn trẻ.
Năm 1982 - 15 năm sau
- thời gian chín mùi để tôi thật sự sống đời du mục. Tòa thị trưởng nghe đồn tôi muốn
có một chiếc xe cắm trại để sống với người du mục. Sau khi hỏi ý tôi và được sự chấp
thuận của các bề trên dòng, tòa thị trưởng cho tôi quyền xử dụng một chiếc xe cắm
trại.
Tôi bắt đầu năm thứ 16 trên chiếc xe để cùng chia sẻ vui buồn, sướng
khổ với anh chị em du mục. Đôi khi tôi cảm thấy mình thật bất lực, mỏng dòn, khốn
khổ, nhưng tôi kín múc sức mạnh nơi sự hiện diện thật sự của Đức Chúa GIÊSU trong
bí tích Thánh Thể, niềm tin trong sự hiện diện của Chúa nơi tâm lòng những người sống
chung quanh tôi và niềm trông cậy nơi Đấng đã phán: ”Thầy ở cùng các con mọi ngày
cho đến tận thế”.
Sau đó chính quyền thành phố đòi lại đất chúng tôi đang
cắm trại và cứ đẩy chúng tôi ra xa dần. Họ cũng không cho phép chúng tôi đặt nhà nguyện.
Nhưng chúng tôi không đánh mất niềm tin cậy. Thế nào rồi chúng tôi cũng có nơi để
cầu nguyện, học giáo lý và hội họp chung quanh Lời Chúa! Trong khi chờ đợi, người
ta đặt Mình Thánh Chúa trong xe cắm trại của tôi. Mỗi ngày thứ hai, Cha Tuyên Úy cử
hành Thánh Lễ trước lều trại của tôi. THIÊN CHÚA không có nơi để nghỉ ngơi. Các người
du mục thường nói: ”Nhà nguyện chính là nơi THIÊN CHÚA ở với chúng ta”. Vì thế, các
người du mục quyên góp để có tiền xây một nhà nguyện. Các trẻ em cũng tham dự cuộc
quyên góp này. Chúng nhịn tiền mua kẹo để bỏ vào hòm tiền. Thật là nghĩa cử cao đẹp,
một hy sinh to tát!
(”Missions Étrangères de Paris”, n.330, Juin/1998,
trang 183-185)