Thánh lễ chúa nhựt Phục sinh được cử hành trên thềm đền thờ thánh Phêrô, được biến
thành một hoa viên nhân tạo nhờ tài trang trí của hiệp hội các nhà trồng hoa bên Hòa
lan, với sự xếp đặt 30 ngàn cánh hoa đủ lọai và 30 ngàn cây cảnh dọc theo bàn thờ
và con đường rước kiệu từ đền thờ và các bậc cấp. Bầu trời nắng đẹp, với các tín hữu
thuộc nhiều dân tộc trong các bộ y phục cổ truyền tạo nên quang cảnh ngọan mục. Tính
cách phổ thế của Giáo hội được nêu bật qua nhiều sắc thái khác nữa. Bài đọc thứ nhất
được tuyên đọc bằng tiếng Tây-ban-nha, bài đọc hai bằng tiếng Anh, các ý chỉ lời nguyện
được xướng bằng tiếng Hy-lạp, Đức, Triều tiên, A-rap, Bồ-đào nha, Pháp, và đặc biệt
là các lời chúc mừng bằng 62 ngôn ngữ sau khi kết thúc sứ điệp.
Kể từ năm thánh
2000, mở đầu thánh lễ là một nghi thức gặp gỡ giữa Chúa Phục sinh với thánh Phêrô.
Đề tài này dựa theo các đọan Tin mừng của Luca (Lc 24,12.34) và của Gioan (20,3-14):
ông Phêrô đã chạy tới mồ và Chúa đã hiện ra với ông. Thánh Phêrô mang sứ mạng loan
tin mừng Chúa sống lại cho tòan thế giới. Nghi thức diễn ra cách đơn giản. Sau khi
ĐTC tới bàn thờ, hai phó tế mở khảm đựng bức icôn vẽ dung nhan của Đức Kitô, và công
bố: “Chúa đã sống lại, Chúa đã hiện ra với ông Simon ”,
xen vào những đọan ca Alleluia .
Tiếp đến là nghi thức rảy nước thánh
để nhắc lại bí tích rửa tội. Sau bài Phúc âm, một ca đoàn của Giáo hội Đông phương
ra trước bàn thờ hát bài thánh ca mừng Chúa Phục sinh theo nghi thức Byzantin, đánh
dấu đặc biệt sự hiệp nhất giũa các Giáo hội Công giáo và Chính thống nhân dịp năm
nay cùng mừng lễ Phục sinh vào cùng một ngày. Thánh lễ kết thúc vào lúc 11 giờ 45
phút. Đức Thánh Cha đi vào trong đền thờ và lúc đúng 12 giờ thì xuất hiện trên bao
lơn để đọc sứ điệp Phục sinh, được trực tiếp truyền hình qua 108 đài thuộc 67 quốc
gia. Đề tài năm nay dựa trên lời tuyên xưng của ông Tôma “Lạy Chúa của tôi, lạy Thiên
Chúa của tôi”. Lời tuyên xưng này được thốt lên sau khi Chúa Phục sinh hiện ra với
ông, mời ông chạm đến các thương tích của Người và đừng cứng lòng tin nữa. Thực ra
những thử thách về lòng tin của ông Tôma vẫn còn là những thử thách của con người
thời nay: lòng tin của chúng ta thường bị lung lay trước những đau khổ và sự dữ trên
đời. Tuy nhiên, chính đó là cơ hội để chúng ta thanh luyện hình ảnh về Thiên Chúa,
Đấng đã mặc lấy những đau khổ và thương tích của con người, và đã tỏ ra tình yêu qua
các thương tích đó. Sau đây là nguyên văn sứ điệp.
Kính thưa anh chị em
trên khắp thế giới, Kính thưa tất cả những người thiện chí
Chúa Kitô đã sống
lại! Bình an cho anh chị em! Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm trọng đại, nền tảng của
niềm tin và hy vọng của Kitô giáo: Đức Giêsu Nazareth, kẻ chịu chết trên thập giá,
vào ngày thứ ba Người đã sống lại từ cõi chết, theo như lời Kinh Thánh. Lời loan báo
của các thiên sứ vào buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần, cho bà Maria Madala và những
phụ nữ khác chạy đến mồ, ngày hôm nay lại được lặp lại một lần nữa cho chúng ta: “Tại
sao đi tìm ở nơi những người chết Kẻ hiện đang sống? Người không còn đây nữa; Người
đã sống lại rồi!” (Lc 24,5-6).
Thật không khó mường tượng tâm tình của các
phụ nữ vào lúc ấy: những tâm tình buồn sấu thương tiếc vì cái chết của Chúa mình,
những tâm tình nghi nan và ngỡ ngàng trước một sự kiện quá lạ lùng, khó mà tin được.
Thế nhưng ngôi mồ đã được mở toang và trống rỗng: thân xác không còn nữa.Hai ông
Phêrô và Gioan, được các bà bá cáo, đã chạy đến mồ và chứng thực rằng các bà nói đúng.
Lòng tin mà các tông đồ đặt vào đức Giêsu như là đấng Mêsia đang mong đợi, đã bị
thử thách nặng nề do cây thập giá gây ra vấp phạm. Trong thời gian Người bị bắt, bị
lên án và chịu chết, các ông đã tẩu tán, nhưng bây giờ họ lại quy tụ, giữa cảnh hoang
mang và lạc hướng. Lúc các ông còn mang trong lòng nỗi ước ao được chứng cớ hiểm minh
thì chính Đấng Phục sinh đã đến gặp gỡ. Đây không phải là mộng ảo hoặc tưởng tượng
chủ quan về cuộc gặp gỡ, nhung là một kinh nghiệm đich thực tuy dù họ không mong đợi,
và chính vì thế mà rất xúc động: “Đức Giêsu hiên đến ở giữa các ông và nói: Bằng an
cho các con!” (Ga 20,19).
Nghe những lời ấy, lòng tin hầu như tắt lịm lại
được khơi dậy. Các tông đồ thuật lại cho ông Tôma, vắng mặt trong buổi hội ngộ kỳ
diệu lần thứ nhất: Đúng rồi, Chúa đã hoàn thành những gì đã báo trước; Người đã sống
lại thật và chúng tôi đã thấy và đã chạm đến Người. Nhung ông Tôma vẫn do dự nghi
nan. Tám ngày sau khi Đức Giêsu đến lần thứ hai ở nhà Tiệc Ly, Người nói với ông:
“Anh hãy để ngón tay mình ở đây và hãy nhìn những bàn tay của Thầy, hãy chìa bàn tay
ra và xỏ vào cạnh sườn của Thầy, và đừng cứng lòng tin nữa nhưng hãy tin đi”. Tông
đồ Tôma đã đáp lại bằng một lời tuyên xưng cảm động: “Lạy Chúa tôi và Thiên Chúa của
tôi!” (Ga 20,27-28).
“Lạy Chúa của tôi và Thiên Chúa của tôi!”. Chúng
ta cũng hãy lặp lại lời tuyên xưng đức tin của ông Tôma. Tôi muốn chọn những lời ấy
làm câu chúc cho lễ Phục sinh năm nay, bởi vì nhân loại hôm nay đang mong chờ nơi
các Kitô hữu chứng tá của cuộc Phục sinh của Chúa Kitô; người ta đang cần gặp gỡ
Người và có thể nhận biết Người như là Thiên Chúa thật và Con Người thật. Nếu như
nơi tông đồ Tôma, chúng ta có thể bắt gặp những nghi nan do dự của biết bao Kitô hữu
thời nay, những nỗi sợ hãi và thất vọng của biết bao nhiều con người ngày nay, thì
cùng với ông, chúng ta cũng có thể tái khám phá cách xác tín lòng tin vào Đức Kitô
đã chết và sống lại vì chúng ta. Lòng tin này, được những vị kế nhiệm của các thánh
tông đồ truyền lại qua dòng thời gian, vẫn còn tiếp tục, bởi vì Chúa phục sinh không
còn chết nữa. Người sống ở trong Giáo hội và dẫn dắt Giáo hội cách chắc chắn tiến
đến việc hoàn tất kế hoạch hằng hữu của ơn cứu độ.
Mỗi người chúng ta có
thể bị cám dỗ cứng lòng tin giống như ông Tôma. Sự đau khổ, sự ác, những bất công,
cái chết, cách riêng khi những điều đó ập xuống những kẻ vô tội – chẳng hạn như các
thơ nhi nạn nhân của chiến tranh, khủng bố, bệnh tật, đói khát – những điều ấy chẳng
làm cho đức tin của chúng ta lung lay đó sao? Thế nhưng, xem ra ngược đời, chính trong
hoàn cảnh đó, sự cúng lòng tin của ông Tôma lại hữu ích và quý giá cho chúng ta,
bởi vì nó giúp chúng ta thanh luyện khỏi mọi quan niệm sai lầm về Thiên Chúa và đưa
chúng ta đến việc khám phá ra khuôn mặt đích thực của Ngài: khuôn mặt của một Thiên
Chúa, nơi Đức Kitô, đã chuốc lấy cho mình những thương tích của nhân loại bị đả thương.
Ông Tôma đã nhận lãnh từ Chúa Giêsu và truyền lại cho Giáo hội hồng ân của một đức
tin được thanh luyện nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của đức Giêsu, và được củng cố nhờ
cuộc gặp gỡ với Người đã phục sinh. Một đức tin hầu như đã chết và được tái sinh nhờ
tiếp xúc với những thương tích của Đức Kitô, với những vết thương mà Đấng Phục sinh
không che giấu đi nhưng đã bày tỏ ra và tiếp tục trỏ ra cho chúng ta qua những nỗi
khổ cực đau đớn của mỗi con người.
“Từ những thương tích của Người mà anh
em được chữa lành” (1Pr 2,24): đó là lời loan báo mà thánh Phêrô gửi đến những tân
tòng tiên khởi. Những thương tích mà đối với ông Tôma trước đó đã là trở ngại cho
đức tin bởi vì là dấu hiệu của cuộc thất bại của Đức Giêsu; nhưng, nhờ cuộc gặp gỡ
với Đấng Phục sinh, chính những thương tích ấy lại trở thành chứng cớ của một tình
yêu khải hoàn. Những thương tích mà Đức Kitô đã mang lấy vì yêu thương chúng ta giúp
chúng ta hiểu được Thiên Chúa là ai, và lặp lại rằng “Lạy Chúa của tôi, Lạy Thiên
Chúa của tôi”. Duy một Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi mang trên mình những
vết thương và sự đau khổ của chúng ta, nhất là của người vô tội, thì mới thật đáng
tin.
Biết bao vết thương, biết bao đau khổ ở trên thế giới này. Không thiếu
những tai hoạ thiên nhiên và những thảm trạng do con người gây ra đã gây ra cái chết
cho vô số người và những thiệt hại vật chất khổng lồ. Tôi nghĩ đến những gì mới xảy
ra ở Madagascar, quần đảo Salomon, Mỹ châu latinh và các vùng khác trên thế giới.
Tôi nghĩ đến tai ương của nạn đói, các bệnh nan trị, cơn khủng bố, bắt cóc, và hằng
ngàn khuôn mặt của bạo động – đôi khi dưới chiêu bài tôn giáo - , sự khinh miệt mạng
sống, sự chà đạp nhân quyền, sự trục lợi người khác. Tôi lo lắng khi nhìn đến điều
kiện của nhiều vùng bên Phi chấu: tại Dafur và những xứ láng giềng, vẫn kéo dài tình
trạng bất nhân khủng khiếp nhưng ít được dư luận để ý; ở Kinshasa, Cộng hoà dân chủ
Congo, những cuộc đụng độ và cướp bóc diễn ra trong những tuần qua gây ra lo ngại
cho tương lai của tiến trình dân chủ và sự tái thiết của nước Congo; ở Somalia, sự
tái diễn những cuộc giao tranh đã đẩy xa viễn tượng hoà bình và gây nặng thêm cuộc
khủng hoảng trong miền, cách riêng là các cảnh di dân và buôn bán vũ khí; một cuộc
khủng hoàng trầm trọng đang đè nặng trên nước Zimbabwe, mà các giám mục địa phương
trong một văn kiện mới đây đã đề ra con đường duy nhất để vượt qua là sự cầu nguyện
và sự tham gia đồng đều vào ích chung. Hoà giải và hoà bình cũng cần thiết cho
nhân dân ở Đông Timor sắp có những cuộc bầu cử quan trọng. Hoà bình cũng cần cho nước
Sri Lanka, nơi mà duy chỉ một giải pháp thương thuyết mới có thể chấm dứt cuộc xung
đột đẫm máu, và cho nước Afghanistan, với những dấu hiệu gia tăng sự bất ổn và xáo
trộn. Tại Trung đông, bên cạnh những dấu hiệu đầy hy vọng của cuộc đối thoại giữa
Israel và Palestine, thì tiếc thay chẳng có gì tích cực ở Irak, nơi mà máu tiếp tục
đổ ra vì những cuộc tàn sát, khiến cho dân chúng bó buộc phải bỏ chạy; tại Liban,
sự tắc nghẽn của các định chế chính trị đã đe doạ vai trò của quốc gia này trong vùng
Trung đông và trói buộc tương lai cách trầm trọng. Sau cùng, tôi không thể nào quên
được những khó khăn mà các cộng đoàn Kitô hữu phải đương đầu mỗi ngày và cảnh tượng
nhiều tín hữu buộc phải rời bỏ Đất được chúc lành, cái nôi của đức tin của chúng ta.
Với những dân tộc ấy, tôi lặp lại ưu ái rằng tôi rất ở gần gũi họ về tinh thần.
Anh
chị em thân mến, qua những thương tích của Đức Kitô, chúng ta có thể nhìn những sự
dữ đang hoành hành nhân loại với cặp mắt của hy vọng. Thật vậy, khi sống lại, Chúa
đã không cất sự đau khổ và sự dữ ra khỏi thế giới, nhưng đã thắng chúng tận rễ bằng
Ân sủng dồi dào của Người. Người đã đối kháng Sự Dữ khống chế bằng Tình Yêu toàn năng
của Người. Người đã để lại cho chúng ta con đường đưa tới bình an và hân hoan, đó
là Tình Yêu không sợ cái chết. Người đã nói với các tông đồ “Như Thầy đã yêu các con
thế nào, các con hãy yêu thương nhau như vậy” (Ga 13,34).
Thưa các anh
chị em trong đức tin đang nghe tôi từ mọi miền trái đất! Chúa Kitô Phục sinh đã sống
giữa chúng ta: Người là niềm hy vọng của một tương lai tốt đẹp hơn. Khi chúng ta cùng
thưa như thánh Tôma “Lạy Chúa của tôi, Lạy Thiên Chúa của tôi!”, thì mong sao vọng
lên trong trái tim chúng ta lời nói êm ái và thúc bách của Chúa rằng: “Ai muốn phục
vụ Tôi thì hãy đi theo Tôi, và Tôi ở đâu, thì kẻ phục vụ Tôi cũng sẽ ở đó. Nếu ai
phục vụ Tôi, thì Chúa Cha sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12,26). Và cả chúng ta nữa, được
kết hiệp với Người, chúng ta hãy sẵn sàng hiến mạng sống cho anh em (xc 1Ga 3,16),
chúng ta trở thành những sứ đồ của hòa bình, sứ giả của niềm vui không sợ đau khổ,
niềm vui của Phục sinh. Xin Đức Maria, thân mẫu của Đức Kitô Phục sinh, cầu cho chúng
ta được hồng ân đó. Chúc mừng lễ Phục sinh.
Sau bài sứ điệp là các lời chúc
mừng với 62 ngôn ngữ khác nhau (mở đầu là tiếng Ý, rồi các ngôn ngữ châu Au, châu
Á, và kết thúc với tiếng esperanto và latinh).
Phụng vụ mừng lễ Chúa Phục sinh
kết thúc với phép lành ban ơn Tòan xá Urbi et Orbi , cho thành phố Rôma và
cho tòan thế giới Urbi et Orbi. Các tín hữu có thể lãnh ân xá qua đài truyền thanh
và truyền hình.