PHỎNG VẤN THỨ TRƯỞNG NGOẠI GIAO TÒA THÁNH VỀ CHUYẾN ĐI VIỆT NAM
Từ ngày 5 đến 11-3-2007, Phái đoàn Tòa Thánh đã viếng thăm Việt Nam. Ngoài cuộc gặp
gỡ Ban thường vụ HĐGM Việt Nam và làm việc với Ban tôn giáo chính phủ, cũng như chào
thăm một số quan chức Nhà Nước Việt Nam, Phái đoàn còn viếng thăm giáo phận Qui Nhơn
và Kontum, thăm Giáo Xứ Hòn Gai ở Hạ Long và cử hành thánh lễ tại Nhà thờ chính tòa
Hà Nội. Để bổ túc Thông Cáo báo chí của Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh công bố hôm 12-3-2007
sau khi Phái đoàn Tòa Thánh về tới Roma, Đài Vatican đã phỏng vấn Đức Ông Pietro Parolin,
Thứ Trưởng ngoại giao và cũng là trưởng Phái đoàn Tòa Thánh trong chuyến đi vừa qua.
H.
Thưa Đức Ông, đâu là mục đích cuộc viếng
thăm vừa qua của Phái đoàn Tòa Thánh tại Việt Nam?
Đ.
Từ năm 1989, tức là năm có cuộc viếng thăm của ĐHY Etchegaray, cho đến ngày nay, đã
có 14 cuộc viếng thăm của Phái đoàn Tòa Thánh tại Việt Nam, phần lớn do các vị Thứ
trưởng ngoại giao hướng dẫn, bấy giờ là Đức Ông Celli, rồi tới Đức Ông Migliore (nay
các vị là TGM). Đối với tôi, đây là lần thứ hai tôi viếng thăm Việt Nam, sau cuộc
viếng thăm hồi năm 2004. Năm ngoái, 2005, Phái đoàn Việt Nam đến Roma, và năm ngoái
2006, tôi không thể đi được vì có những thay đổi tại Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh.
Cùng đi với tôi vừa qua có Đức Ông Luis Mariano Montemayor, Tham tán Sứ Thần phục
vụ tại Phủ Quốc vụ khanh, và Đức Ông Barnabê Nguyễn Văn Phương, người Việt Nam, Chủ
sự tại Bộ truyền giáo. Như đã biết, các cuộc viếng thăm này chủ yếu có hai mục đích:
tiếp xúc với chính quyền Việt Nam, và gặp gỡ với Giáo Hội địa phương. Trong thực tế,
trong một tuần lễ, Phái đoàn Tòa Thánh thi hành những công tác mà, tại các nước khác,
vẫn được ủy thác cho các vị đại sứ của ĐTC, xét vì tại Việt Nam chưa có một vị Đại
diện của ĐGH. Các công tác đó là đối thoại với chính quyền về những vấn đề liên quan
tới Giáo Hội và quan hệ giữa Giáo Hội và Nhà Nước; còn cuộc viếng thăm của Phái đoàn
tại một vài giáo phận là một cách thức để ”củng cố và làm cho mối liên hệ hiệp nhất
giữa Tòa Thánh và các Giáo Hội địa phương hữu hiệu hơn”. Năm nay, chúng tôi đã viếng
giáo phận Quy Nhơn và Kontum, thuộc giáo tỉnh Huế, ở miền Trung Việt Nam, hai giáo
phận này cho đến nay chưa được phái đoàn Tòa Thánh viếng thăm. Cuộc viếng thăm của
Phái đoàn Tòa Thánh chắc chắn là một cách thức hữu hiệu để tiếp xúc và đối thoại,
trong gần 20 năm qua, đã giúp đạt được những bước tiến đáng kể theo chiều hướng đó;
về phần chúng tôi, chúng tôi cầu mong rằng cuộc viếng thăm như thế có thể tiến đến
những hình thức hiện diện bền vững và thường xuyên hơn của một vị Đại diện ĐGH tại
Việt Nam, cho đến khi có sự thiết lập quan hệ ngoại giao và với việc bổ nhiệm một
vị Sứ Thần Tòa Thánh.
H. Vậy theo Đức Ông, cuộc gặp gỡ mới
đây của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng với ĐTC có ảnh
hưởng gì tới cuộc viếng thăm vừa qua của Phái đoàn Tòa
Thánh tại Việt Nam hay không?
Đ. Tôi có thể nói rằng,
trong cuộc viếng thăm thứ hai này, tôi thấy cũng có sự đón tiếp nồng nhiệt mà tôi
đã cảm nghiệm trong lần thứ nhất hồi năm 2004. Với những người gặp gỡ, chúng tôi tiếp
tục tìm cách kiến tạo những mối liên hệ tôn trọng, quí chuộng và tín nhiệm, là những
điều vốn được xã hội Việt Nam đề cao, và làm cho cuộc đối thoại trở nên dễ dàng hơn,
nhất là trong những vấn đề gai góc. Đàng khác, tôi tin rằng người ta đã muốn đặc biệt
nêu bật cuộc viếng thăm này trong liên hệ với cuộc viếng thăm của Thủ Tướng Nguyễn
Tấn Dũng hồi tháng giêng năm nay, cuộc gặp gỡ của thủ tướng với ĐTC và các vị lãnh
đạo Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Chúng tôi nhận thấy điều đó qua bao nhiêu chi tiết
đặc biệt, từ cách thức chúng tôi được đối xử cho đến các bài tường thuật của các cơ
quan truyền thông về sự hiện diện của chúng tôi. Về điểm này tôi thiết nghĩ thật là
điều đúng đắn khi công khai bày tỏ lòng biết ơn đối với chính quyền Việt Nam. Tiếp
đến, người ta đã nói đích thị về cuộc viếng thăm của Thủ Tướng trong nhiều trường
hợp, kể cả trong bối cảnh Giáo Hội - ví dụ, tôi nhớ một đại diện của giáo dân đã nói
rõ ràng với chúng tôi về điều đó trong lời chào mừng chúng tôi vào cuối thánh lễ tại
Nhà thờ Chính Tòa Hà Nội - nêu bật tầm quan trọng của biến cố đó và bày tỏ tin tưởng
rằng biến cố ấy có thể đánh dấu một giai đoạn quan trọng trên con đường với ý chí
hướng nhìn về đằng trước, hướng về tương lai, vượt qua những khó khăn vẫn còn hiện
nay.
H. Trong cuộc viếng thăm của Phái đoàn Tòa
Thánh có bàn về viễn tượng có thể lập quan hệ ngoại giao trong
tương lai gần đây giữa Tòa Thánh và Việt Nam hay không?
Đ.
Vấn đề quan hệ ngoại giao có được nói tới, nhưng trong lúc này không có ấn định thời
điểm. Có lẽ có những người mong đợi có những tiến bộ quan trọng hơn về vấn đề này,
xét vì trong cuộc viếng thăm của Thủ Tướng Việt Nam tại Vatican vấn đề đó đã được
ĐHY Quốc Vụ Khanh đích thị nêu lên và trước đây, nhiều nhân vật chính trị ở Việt Nam
cũng đã tuyên bố ủng hộ và Giáo Hội địa phương cũng đã bày tỏ sự ủng hộ. Dầu sao,
tôi tin tường đó là một bước tiến đáng kể, vì từ phía Việt Nam đã có nhắc lại rằng
Thủ Tướng Việt Nam, như chính ông đã hứa ở Roma, đã ra chỉ thị có các cơ quan thẩm
quyền cứu xét vấn đề và chúng tôi được đề nghị, trong những tháng tới đây, thành lập
một nhóm chuyên gia có nhiệm vụ nghiên cứu thời điểm và thể thức cụ thể để khởi sự
tiến trình thiết lập quan hệ ngoại giao. Về vấn đề này, tôi muốn nhắc lại rằng để
thiết lập quan hệ ngoại giao, không đòi phải giải quyết trước đó tất cả các vấn đề
còn tồn đọng. Quan hệ ngoại giao không phải chỉ là một điểm tới, nhưng đúng hơn đó
là một điểm khởi hành. Khi lập quan hệ ngoại giao, người ta đưa ra một dấu hiệu mạnh
mẽ cho thấy mình muốn có những quan hệ hỗ tương một cách xây dựng, đồng thời loại
trừ những gì còn gây khó khăn. Với quan hệ ngoại giao, qua sự trao đổi các đại diện
với nhau, hai bên có những con kênh ưu tiên để có thể có sự thông tin cho nhau một
cách mau lẹ và đúng đắn, đó là điều quan trọng để có thể nuôi dưỡng những quan hệ
tốt với nhau”.
H. Thưa Đức Ông, trong các cuộc nói chuyện của
Phái đoàn Tòa Thánh với chính quyền Việt Nam, có đề cập
đến vụ cha Nguyễn Văn Lý hay không?
Đ.
Có, trong các cuộc nói chuyện, chúng tôi đã hỏi những vị đối thoại với chúng tôi tin
tức về vụ phức tạp là vụ Cha Lý, như đã biết cộng đồng quốc tế rất quan tâm tới vấn
đề này. Chúng tôi ghi nhận những thông tin mà phía Việt Nam đã cho chúng tôi. Phái
đoàn Tòa Thánh đã nêu ý kiến rằng cần phải đảm bảo cho cha Lý một cuộc xét xử đúng
đắn, để cha ấy có cơ hội tự biện hộ, và trong tư cách là linh mục, cho phép cha ấy
được có những tiếp xúc với các Bề trên của cha trong Giáo Hội.
H. Đức
Ông có thể chia sẻ với chúng con những cảm tưởng của Đức
Ông về những tiến bộ liên quan tới tự do tôn giáo ở Việt Nam hay không?
Đ.
Tôi thấy rằng tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam cũng là tình hình đã được mô tả
trong thông cáo báo chí được Tòa Thánh công bố vào cuối cuộc viếng thăm của Thủ Tướng
Việt Nam nơi ĐTC. Thông cáo đó có nói đến ”những môi trường đã được mở ra” và tôi
có thể đoan chắc rằng, dựa theo chứng từ của các GM Việt Nam, một số vấn đề đã được
giải quyết, và một số vấn đề khác đang trên đường được giải quyết. Ví dụ tôi muốn
nói đến vấn đề tái thiết các nhà thờ bị phá hủy trong thời chiến tranh và việc kiến
thiết các nơi thờ phượng mới nơi có dân chúng di cư tới lập nghiệp. Đối với những
vấn đề còn bỏ ngỏ, chúng tôi hy vọng, qua sự đối thoại và thiện chí, cũng sẽ đi tới
một giải pháp thỏa đáng. Như chúng ta biết, chính sách tôn giáo của chính phủ Việt
Nam được ấn định trong Pháp lệnh về tín ngưỡng và tôn giáo ban hành ngày 18-6-2004,
xoay quanh hai nguyên tắc theo đó, các tín hữu - trong đó có các tín hữu Công Giáo
- là thành phần trọn vẹn của Quốc gia và Nhà nước dấn thân đáp ứng các yêu cầu hợp
pháp của họ. Trong các cuộc gặp gỡ với Ban tôn giáo, chúng tôi đã được thông báo về
tình trạng áp dụng Pháp lệnh ấy, và có cả một tập sách nhỏ được ấn hành về vấn đề
này với tựa đề ”Tôn giáo và các chính sách liên quan tới tôn giáo tại Việt Nam - Religion
and policies religion in Vietnam”. Vì nhiều thẩm quyền trong vấn đề tôn giáo được
ủy cho chính quyền địa phương, nên điều quan trọng là làm sao luôn bảo đảm cho có
một sự áp dụng đồng nhất luật pháp, để các miền quê xa xôi hẻo lánh khỏi bị thiệt
thời, so với các vùng thành thị và phát triển nhiều hơn. Rồi tôi thấy điều quan trọng
là cần để ý tới những nhận xét của các cộng đồng tôn giáo về việc áp dụng luật pháp,
những nhận xét này dựa trên kinh nghiệm và cho phép cải tiến luật pháp tại những nơi
nào cần, để cho tự do tôn giáo, vốn là một quyền căn bản của mỗi người và các cộng
đoàn, luôn luôn được tôn trọng và áp dụng trong thực tế.
H. Đâu là cảm
tưởng của Đức Ông về đời sống Giáo Hội tại Việt
Nam?
Đ. Tôi đã nói trong nhiều dịp, trong các cuộc gặp
gỡ với các tín hữu, rằng điều mà chúng tôi đã nhận được nhiều hơn những gì chúng tôi
đã cho. Thực vậy, người ta không thể không cảm động và được khích lệ vì tấm gương
và chứng từ của các tín hữu Công Giáo Việt Nam. Đôi mắt và tâm hồn tôi như còn đầy
những hình ảnh về các buổi lễ phụng vụ ở Quy Nhơn, Pleiku, Hà Nội, v.v. rất đông tín
hữu, phần lớn thuộc các bộ lạc người dân tộc, người thượng, họ tập họp vào ban chiều
tối ngày 8-3 trước nhà thờ chính tòa Kontum, hình ảnh cộng đồng giáo xứ Hạ Long rất
sốt sắng, đã từng phải chịu nhiều đau khổ. Tôi có ấn tượng rất mạnh về cách cầu nguyện
của các tín hữu, rất sốt sắng, chăm chú, sùng kính, nhưng đồng thời rất dấn thân trên
bình diện cộng đoàn, vì tất cả mọi người, trẻ em, người lớn, người già người trẻ,
nam giới nữ giới hát và thưa đồng đều. Tôi không thể không nhắc tới lòng kính yêu
của các tín hữu Công Giáo Việt Nam đối với ĐTC, trong cuộc viếng thăm của Phái đoàn
Tòa Thánh, các tín hữu đã liên tục bày tỏ lòng gắn bó con thảo và trung thành đối
với ĐTC. Giáo Hội Việt Nam là một Giáo Hội can đảm năng động, đầy sức sống, và một
trong những dấu chỉ chứng tỏ điều đó là có rất đông ứng sinh linh mục và đời tu. Tiếp
đến, đó là một Giáo Hội dấn thân xây dựng xã hội, chăm sóc những người túng thiếu,
đồng thời mong muốn có thể dấn thân nhiều hơn nữa trong lãnh vực giáo dục và xã hội,
để mang lại một đóng góp có phẩm chất cao hơn và hiệu năng hơn cho đất nước và cho
mọi người dân, không phân biệt họ có tín ngưỡng hay không, hoặc thuộc nhóm tôn giáo
này hay tôn giáo khác. Sau cùng, đó là một Giáo Hội ý thức về những vấn đề có liên
hệ tới sự công nghệ hóa mau lẹ của Đất nước, tới sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, Việt
Nam có mức phát triển kinh tế là 8,4% dự kiến cho năm 2007 này, tức là đứng thứ hai
về tỷ lệ phát triển kinh tế mau lẹ trên thế giới, Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam
muốn chuẩn bị để đương đấu với thách đố ấy và tiếp tục là muối và là men, và soi sáng
cho mọi người qua việc hân hoan loan báo Tin Mừng.